Hiển thị các bài đăng có nhãn Chữa bệnh tiểu đường. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Chữa bệnh tiểu đường. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 24 tháng 9, 2013

1. Định nghĩa và tính thường gặp

“ Đái tháo đường thai kỳ được định nghĩa là tình trạng không dung nạp carbohydrat được phát hiện lần đầu khi mang thai”

Các nghiên cứu kinh điển của Freinkel đã chứng minh ở người đái tháo đường thai kỳ, trong thời kỳ mang thai Insulin tăng tiết gấp 1,5 – 2 lần khi đáp ứng với nghiệm pháp dung nạp glucose bằng đường uống hay truyền tĩnh mạch. Rõ ràng là cả lượng insulin dự trữ lẫn khả năng đáp ứng bài tiết mới của tế bào bêta (β) đã bị giới hạn. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến  hiện tượng không dung nạp glucose ở người mẹ.
Các bất thường về chuyển hóa bao gồm tiết insulin mất cân đối và các tác động của nó đến quá trình thu nhận glucose, ngăn chặn sản xuất glucose ở gan và giảm tuyệt đối sử dụng glucose được insulin hoạt hóa.
Các nghiên cứu dịch tễ học về đái tháo đường thai kỳ phát hiện nhiều điểm chung, giống với đái tháo đường type 2. Những phụ nữ mắc bệnh đái tháo đường thai kỳ có xu hướng hay gặp ở lớp người nhiều tuổi hơn (trên 25 tuổi), có thừa cân, béo phì so với những phụ nữ có dung nạp glucose bình thường khi mang thai. Cũng như đái tháo đường type 2 , tần suất mắc đái tháo đường thai kỳ tăng lên cùng với tuổi và chỉ số cơ thể (BMI) thường gặp hơn ở các quần thể không phải là da trắng. Trong các nghiên cứu khác nhau, nguy cơ tương đối tăng từ 1,6-3,5 lần ở người da đen, tăng 1,8 lần ở người có nguồn gốc Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, tăng 8,5 lần ở người sống vùng Đông Nam Á, tăng 10,9 lần ở người Đông Ấn và gấp 15 lần ở người Mỹ bản địa. Những phát hiện này cũng tương tự đối với tỷ lệ đái tháo đường typ 2 ở các nhóm chủng tộc tương ứng, cũng như về mối liên hệ với tuổi và sự béo phì. Những thay đổi về chuyển hóa ở phụ nữ đái tháo đường thai kỳ cũng có những đặc điểm phù hợp với đặc điểm của người đái tháo đường type 2.
Ở Việt Nam cũng đã có một vài nghiên cứu về vấn đề này. Lứa tuổi hay gặp của những sản phụ được chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ thường trên 35, thường gặp ở người thừa cân, béo phì (IBM trên 23). Đái tháo đường thai kỳ cũng hay gặp ở những phụ nữ đã từng sinh đẻ nhiều lần.
Ở phụ nữ đái tháo đường thai kỳ, nồng độ insulin huyết tương lúc đói tăng gấp 2 lần trong kỳ thai 3 tháng cuối so với sau đẻ. Đặc điểm này cũng tương tự như ở phụ nữ không bị đái tháo đường mang thai. Mức tăng tiết insulin tương đối trong nghiệm pháp dung nạp glucose đường uống ở phụ nữ đái tháo đường thai kỳ thấp hơn một cách có ý nghĩa so với phụ nữ mang thai có dung nạp glucose bình thường. Đáp ứng pha sớm của insulin ở người có đái tháo đường thai kỳ giảm thấp đến dưới 25% so với phụ nữ bình thường mang thai. Đáp ứng insulin pha muộn tăng tương tự người bình thường có thai và người đái tháo đường thai kỳ. Khả năng tiết insulin ở phụ nữ đái tháo đường thai kỳ nói chung thấp hơn so với phụ nữ có dung nạp glucose bình thường khi mang thai. Ở người bệnh đái tháo đường thai kỳ, đỉnh insulin xảy ra muộn hơn trong nghiệm pháp dung nạp glucose đường uốn. Hiện tượng này tương ứng với giảm đáp ứng insulin pha sớm trong nghiệm pháp dung nạp glucose bằng đường tĩnh mạch. Tiến hành nghiệm pháp dung nạp glucose bằng đường uống cho thấy, ở phụ nữ đái tháo đường thai kỳ luôn có mức insulin cao hơn so với sau khi đẻ và mức Insulin cao nhất thường gặp ở phụ nữ béo phì được chẩn đoán có đái tháo đường thai kỳ. Ngược lại mức tăng nhạy cảm của tế bào bêta (β) đối với các kích thích của các acid amin và glucose thấp hơn một cách có ý nghĩa ở những đối tượng này. Ở phụ nữ mang thai có dung nạp glucose bình thường, đáp ứng của Insulin với thức ăn giàu protein tăng lên rõ rệt so với phụ nữ đái tháo đường thai kỳ.
Ngày nay người ta biết rằng những rối loạn trong sự phát triển của đảo tụy thời kỳ bào thai và niên thiếu sẽ ảnh hưởng đến sự thăng bằng chuyển hóa và chức năng của tế bào bêta (β) ở giai đoạn sau của cuộc đời. Các tác giả Anh nhận thấy các đối tượng lúc sinh ở giai đoạn dưới một tuổi có cân nặng thấp, sẽ có nguy có bị đái tháo đường type 2 vào lứa tuổi trên 40.
Yếu tố môi trường và dinh dưỡng luôn có vai trò quyết định khuynh hướng phát triển của các rối loạn dung nạp glucose và đái tháo đường type 2. Điều này đã được chứng minh bởi số người mắc bệnh đái tháo đường type 2 đang tăng nhanh ở các nước châu Á, nơi đang có sự thay đổi nhanh mức tăng trưởng kinh tế, kéo theo sự thay đổi “đột ngột” về mức sống và lối sống. Những số liệu về bệnh đái tháo đường trong quần những người gốc châu Á, châu Phi di cư đến sống ở các nước công nghiệp phát triển cao hơn người bản xứ, cũng là những chứng cứ khoa học ủng hộ cho nhận xét này.
Các nghiên cứu về mô bệnh học tụy của thai nhi mà mẹ bị bệnh đái tháo đường tháo đường hoặc bị đái tháo đường thai kỳ cũng thấy có hiện tượng kích thích sự tăng trưởng của tế bào bêta (β).
 2. Chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ
Các tiêu chuẩn chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ còn là vấn đề trang cãi mặc dù đã có nhiều hội thảo quốc tế đề cập đến vấn đề này.
Trong nghiên cứu kinh điển, O’Sullvivan và Mahan (1964) đã tiến hành phân tích thống kê đáp ứng với glucose của cơ thể trong 3 giờ với nghiệm pháp 100g glucose bằng đường uống ở 752 phụ nữ mang thai khỏe mạnh. Những quan sát của họ thu được giá trị tương ứng với giá trị trung bình cộng trừ 2 lần độ lệch chuẩn (SD) ở các thời điểm cơ sở lúc đói, sau 1, 2 và 3 giờ. Bằng cách tự chọn mức dung nạp carbohydrat thấp hơn và cao hơn trung bình 2 SD là bất thường. Theo tiêu chuẩn này có 2,5% đối tượng được xác định là mắc đái tháo đường thai kỳ.
Các tiểu chuẩn chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ còn gây nhiều tranh cãi. Sau đây xin giới thiệu tóm tắt một số cơ sở xây dựng tiêu chuẩn chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ.
 a. Chẩn đoán dựa trên cơ sở thống kê số liệu
Cách định nghĩa bệnh theo thống kê, ngay từ đầu, đã thấy được nhược điểm là chịu ảnh hưởng của tính khác biệt với từng quần thể. Đặc điểm này thể hiện ở các kết quả điều tra, tỷ lệ hiện mắc đái tháo đường thai kỳ dao động từ 0,5% (ở miền bắc nước Anh) đến 12,3% ở số dân thành phố (chủ yếu là người gốc Tây Ban Nha và da đen). Trong một tài liệu tổng quan về một nhóm nhiều dân tộc gồm 10.187  phụ nữ được sàng lọc theo tiêu chuẩn hóa về không dung nạp Glucose ở New York, tỉ lệ hiện mắc chung đái tháo đường thai kỳ là 3,2%. Tần suất đái tháo đường thai kỳ thấp nhất ở nhóm người da trắng, tiếp sau là người da đen, người gốc Tây Ban Nha, người nguồn gốc châu Á và cuối cùng là nhóm phụ nữ được xếp vào một nhóm chung –nhóm chủng/dân tộc khác.
Như vậy dùng phương pháp thống kê thuần túy để định nghĩa đái tháo đường thai kỳ là không thích hợp vì nó phụ thuộc vào nguy cơ tương đối của quần thể được nghiên cứu.
 b. Chẩn đoán dựa trên tỷ lệ bệnh tật liên quan
Một phương tiện thích hợp hơn để định nghĩa bệnh là dựa vào tỷ lệ bệnh tật liên quan. Tiêu chuẩn của O’Sulivan và Mahan đã chịu được thử thách thời gian như một yếu tố dự báo đái tháo đường xảy ra sau đó  ở người mẹ, với tỷ lệ mắc đái tháo đường là 50% sau 28 năm theo dõi ở những phụ nữ trong thời gian mang thai được chẩn đoán là đái tháo đường thai kỳ.
-  Tỷ lệ bệnh của mẹ cũng được phản ánh bằng sự tăng có ý nghĩa tỷ lệ mắc mới của tăng huyết áp và tiền sản giật do mang thai. Với sự quản lý tích cực hiện nay, nếu duy trì mức glucose máu bình thường, lúc đói và sau ăn, các biến chứng thường gặp trước đây ở mẹ như đa ối, đẻ non, các bất thường khác khi đẻ và chấn thương khi sinh không tăng lên ở nhóm đái tháo đường thai kỳ. Các hậu quả cấp tính chủ yếu của đái tháo đường thai kỳ tuy không/ hoặc ít tác động tới mẹ nhưng lại tác động đến bào thai.
- Tỷ lệ bệnh tật ở trẻ sơ sinh
Tỷ lệ bệnh tật ở trẻ sơ sinh của các phụ nữ đái tháo đường thai kỳ đã được thừa nhận từ lâu. Các biến chứng chuyển hóa bao gồm hạ glucose máu, hạ calci máu, thai to, tăng bilirubin máu thường xảy ra. Ngày nay nhờ những tiến bộ trong kỹ thuật chăm sóc trẻ sơ sinh, rất khó chứng minh được sự thay đổi về tỷ lệ bệnh tật ở những đối tượng này. Tuy nhiên, các số liệu trước đây đã cho thấy, tỷ lệ tử vong tăng gấp 4 lần ở trẻ em của các bà mẹ được chẩn đoán có đái tháo đường thai kỳ. Song các ảnh hưởng đến trẻ em không chỉ giới hạn trong thời kỳ chu sinh mà còn rất lâu dài. Khi trưởng thành, những trẻ em này sẽ sớm phát triển kháng Insulin, dễ bị mắc bệnh thừa cân, béo phì, đặc biệt phần lớn trong số họ có một tỷ lệ cao không dung nạp glucose.
Như vậy, chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ và quản lý bệnh tích cực ở các bà mẹ không chỉ nhằm đảm bảo sức khỏe cho sản phụ mà còn làm giảm hoặc loại bỏ hẳn các biến chứng chu sinh, sơ sinh, thậm chí các biến chứng lâu dài ở con cái của họ. Vì thế nhiều nghiên cứu về vấn đề này đã được tiến hành nhằm đặt được một tiêu chí chẩn đoán hoàn hảo.
 c. Giới thiệu một số  tiêu chuẩn chẩn đoán
- Chẩn đoán xác định và chẩn đoán sàng lọc
Tiêu chuẩn được giới thiệu sau đây được áp dụng khá phổ biến ở Mỹ. Người ta cho những sản phụ mang thai tiến hành nghiệm pháp sàng lọc vào tuần thứ 24 đến 28 của thai kỳ. Sản phụ uống 50 gam glucose, nếu đường máu sau một giờ từ 7,8 mmol/l trở lên thì tiến hành nghiệm pháp 100 gam.
 Bảng tiêu chí chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ
Đường huyết tươngNFSL 50 gam GlucoseNFSL 100 gam Glucose
Lúc đói 5,83 mmol/l
Sau 1 giờ7,8 mmol/l10,56 mmol/l
Sau 2 giờ 9,2 mmol/l
Sau 3 giờ 5,3 mmol/l
 NFSL: Nghiệm pháp sàng lọc
Chẩn đoán dương tính nếu có từ 2 giá trị trên ngưỡng.
Tuy nhiên, tiêu chuẩn chẩn đoán này lại không  hề tính đến các kết cục ở trẻ sơ sinh. Với ý thức đó, nhiều nhà lâm sàng đã lên tiếng hỏi liệu tiêu chuẩn của O’Sulivan và Mahan có phải là quá lỏng lẻo để phát hiện và kết luận những người có nguy cơ mắc bệnh tật chu sinh liên quan đến không dung nạp carbohydrat?
Với nghi vấn này “ sự bất khả xâm phạm” của tiêu chuẩn chẩn đoán vốn được tin dùng bấy lâu nay đang bị nghi vấn.
Tiêu chuẩn nguyên gốc được dựa trên định lượng glucose ở máu toàn phần theo kỹ thuật Somogy, sau đó được nhóm Dữ liệu Đái tháo đường quốc gia Mỹ (NDDG) sửa đổi bằng cách sử dụng hệ số chuyển đổi bằng 1,14 để đại diện cho glucose huyết tương định lượng bằng kỹ thuật glucokinase. Carpenter và Coustan khuyến cáo sửa đổi sự chuyển đổi này để có tính đại diện hơn cho định lượng glucose huyết tương thực sự. Sự sửa đổi này dẫn đến hạ thấp tất cả các chỉ tiêu ở nghiệm pháp dung nạp Glucose 3 giờ.
* Các tiêu chuẩn của O’Sulivan/Mahan và các tiêu chuẩn chẩn đoán khác về đái tháo đường thai kỳ
Thời điểmTiêu chuẩn O’Sulivan/Mahan [mmol (mg/dl), huyết tương]Nhóm dữ liệu đái tháo đường quốc gia [mmol(mg/dl), huyết tương]Sửa đổi của Carpenter/Coustan
[mmol(mg/dl), huyết tương]
Đói5,0 (90)5,83(105)5,28(95)
1 giờ48,17(165)10,56(190)10,00(180)
2 giờ8,06(145)9,17(165)8,61(155)
6,96,94(125)8,06 (145)7,78(140)
* Tiêu chuẩn đái tháo đường thai kỳ bằng đường uống 75 gam Glucose
Thời điểmTổ chức y tế thế giới mg/dl (mmol/l )Hội nghiên cứu đái tháo đường châu Âu mg/dl (mmol/l )Hội thảo quốc tế đái tháo đường thai kỳ mg/dl (mmol/l )Australia mg/dl (mmol/l )Mose&cs mg/dl (mmol/l )
Đói--95(5,3)99(5,5)90(5,0)
1 giờ--180(10,0--
2 giờ140(7,8)162(9,0)155(8,6)144(8,0)140(7,8)
 3. Phương pháp áp dụng trong điều tra dịch tễ
a. Tiến hành
Trong điều tra dịch tễ người ta vẫn ưa dùng nghiệm pháp chẩn đoán mới với quy trình đơn giản như sau:
- Khám sàng lọc tất cả các đối tượng thuộc nhóm có yếu tố nguy cơ:
+ Tuổi ≥ 25.
+ BMI ≥ 23 trước khi có thai.
+ Tiền sử đái tháo đường thai kỳ.
+ Tiền sử đẻ con to từ 4000 gam trở lên (Với người Việt Nam từ 3600 gam).
+ Tiền sử sản khoa bất thường như xảy thai, thai chết lưu…
+ Tiền sử rối loạn dung nạp glucose (IGT) hoặc suy giảm dung nạp glucose máu lúc đói (IFG).
- Tiến hành nghiệm pháp dung nạp glucose đường uống vào buổi sáng sau một đêm nhịn đói.
Quy trình :
+ Lấy mẫu máu lúc đói để định lượng đường huyết.
+ Cho uống 75 gam glucose loại anhydrous hoặc 82,5 gam loại glucose monohydrat trong 250-300 ml nước trong 5 phút.
+ Lấy mẫu máu sau 2 giờ để định lượng glucose huyết tương.
b. Đánh giá:
- Đánh giá hai chỉ số theo bảng sau:
Đường máu (mmol/l)Bình thườngĐái tháo đường thai kỳ
Lúc đói<6,1≥ 6,1
Sau 2 giờ<7,8≥ 7,8
- Đánh giá ba chỉ số
Do những thiếu sót của các tiêu chuẩn đánh giá trên, nhiều tác giả khuyên nên định lượng và đánh giá glucose máu ở 3 thời điểm , ngay cả khi sử dụng nghiệm pháp 75 gam.
Nghiệm pháp
Tính theo mmol/l
Tính theo mg/dl
100 gam
Lúc đói
Sau 1 giờ
Sau 2 giờ
Sau 3 giờ
5,3
10,0
8,6
7,8
95
180
155
140
75 gam
Lúc đói
Sau 1 giờ
Sau 2 giờ
5,3
10,0
8,6
95
180
155
Ghi chú: Để  chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ phải có từ 2 tiêu chuẩn trở lên.
Chúng ta có thể thấy sự lúng túng trong xác định tiêu chuẩn chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ. Xu hướng ngày nay người ta vẫn sử dụng tiêu chuẩn 75 gam trong điều tra dịch tễ nhiều hơn, vì nó đơn giản, dễ áp dụng.

Đông y có nhiều bài thuốc có tác dụng tốt đối với bệnh nhân tiểu đường. Nguyên tắc điều trị là toàn diện (tác động vào nhiều tạng phủ) và biện chứng (phải tùy vào từng bệnh nhân cụ thể).

Y học cổ truyền không có bệnh danh “đái tháo đường”; nhưng đối chiếu với các chứng trạng lâm sàng, căn bệnh này được quy vào phạm vi chứng “tiêu khát”. Bệnh phát sinh chủ yếu do các nguyên nhân như di truyền, ăn uống bất hợp lý, yếu tố tâm thần kinh, trường, nhiễm trùng, dùng thuốc bất hợp lý hoặc tửu sắc và lao lực quá độ.
Các nguyên nhân này làm rối loạn công năng các tạng phủ, đặc biệt là ba tạng tỳ, phế và thận, từ đó mà phát sinh tiêu khát. Chẳng hạn, việc dùng quá nhiều đồ ăn thức uống béo bổ và khó tiêu khiến cho tỳ vị bị tổn thương, mất khả năng vận chuyển và tiêu hóa thức ăn gây nên tích trệ, lâu ngày hóa nhiệt làm tổn hao âm dịch mà phát sinh thành bệnh.
Căng thẳng thần kinh kéo dài làm cho tạng can mất khả năng sơ tiết, can khí uất kết mà hóa hỏa, hỏa phía trên gây tổn thương âm dịch của phế và vị, phía dưới gây tổn thương âm dịch của thận, từ đó mà phát sinh tiêu khát…
Cũng như các bệnh lý nội khoa mạn tính khác, đối với chứng tiêu khát, nguyên tắc trị liệu của y học cổ truyền là:
Điều trị toàn diện: Xuất phát từ quan điểm chỉnh thể, coi nhân thể là một khối thống nhất. Trong trị liệu phải luôn luôn chú ý xem xét và điều chỉnh công năng tạng phủ bị bệnh trong mối quan hệ ràng buộc và tác động qua lại với tất cả các tạng phủ khác. Sử dụng tổng hợp các biện pháp như dùng thuốc và không dùng thuốc, chế độ ăn uống, sinh hoạt, tập luyện khí công dưỡng sinh…
Biện chứng luận trị: Nghĩa là phải căn cứ vào bệnh cảnh lâm sàng cụ thể, loại hình và giai đoạn bệnh, đặc điểm về thể chất, giới tính, tuổi tác… của từng người mà lựa chọn thuốc và các biện pháp trị liệu cho phù hợp.
Để chữa tiểu đường, Đông y vận dụng các liệu pháp có tính tự nhiên như dược thiện (món ăn – bài thuốc), trà dược, xoa bóp, bấm huyệt, khí công, dưỡng sinh…
Nguyên tắc này dựa trên quan điểm “thiên nhân hợp nhất”: con người và tự nhiên là thống nhất, con người khởi nguồn từ tự nhiên, dựa vào tự nhiên, phát triển cùng với tự nhiên. Con người là sản phẩm, là một bộ phận cấu thành của tự nhiên, mọi biến đổi sinh lý và bệnh lý của nhân thể luôn luôn chịu sự ảnh hưởng và chi phối của tự nhiên.
Điều trị không dùng thuốc
Là sử dụng các liệu pháp tự nhiên như châm cứu, bấm huyệt, xoa bóp, dược thiện, trà dược, cháo thuốc, dán thuốc vào huyệt, tắm thuốc, tập luyện khí công dưỡng sinh…
Chế độ ăn nên trọng dụng các loại thực phẩm như râu ngô, các chế phẩm của đậu tương và đậu đen, xích tiểu đậu, bạch biển đậu, mướp đắng, bí đỏ, bí đao, dưa hấu, tỏi, hoài sơn, hành tây, rau cần, cà rốt, củ cải, măng, hẹ, ngân nhĩ, hải tảo, tụy lợn, cá quả, cá trạch, hải sâm…
Thường xuyên dùng các loại trà dược như khổ qua trà, nam qua phấn giáng đường trà, ngọc mễ tu trà, la hán quả trà, mạch môn hoàng liên trà, hoàng tinh ngọc trúc trà, mạch đông sinh địa tiêu khát trà, cát phấn ngọc tuyền trà, dương sâm hoa phấn tiêu khát trà… Có thể dùng các loại cháo thuốc như cháo tụy lợn, cháo khổ qua, cháo địa cốt bì ngọc mễ tu, cháo đông qua dĩ nhân…
Dùng thuốc theo kinh nghiệm dân gian
Đây là phương pháp trị liệu rất đơn giản, dễ kiếm, dễ dùng, rẻ tiền và có hiệu quả ở các mức độ khác nhau. Kinh nghiệm trị liệu đái tháo đường trong dân gian là rất phong phú nhưng chưa được chú ý đúng mức và khai thác hết. Ví dụ: dùng lá ổi, rễ cây dâm bụt, rễ cây dâu tằm, mướp đắng, thiên hoa phấn, củ mài, hoàng liên sắc uống; dùng dưa hấu, cà rốt, lê, dưa chuột, bí đao, mướp đắng ép lấy nước uống hàng ngày; dùng con gián hoặc nhộng tầm sao vàng tán bột uống…
Dùng thuốc độc vị: Nhộng tằm 20 con, rửa sạch, xào ăn bằng dầu thực vật. Ô mai 15 g, hãm với nước sôi uống thay trà. Đậu đỏ để cả vỏ, sấy khô, mỗi ngày dùng 50 g nấu nước uống. Nấm mỡ lượng vừa đủ, nấu canh hoặc xào với dầu thực vật ăn hàng ngày.
Bí đao tươi 100 g, rửa sạch, ép lấy nước uống hàng ngày. Cà rốt tươi lượng vừa đủ, rửa sạch, ép lấy nước cốt uống hằng ngày. Rễ cỏ tranh 50 g, rửa sạch sắc uống thường xuyên. Ăn lê tươi hàng ngày.
Bí đỏ 250 g nấu canh ăn trong ngày. Mướp đắng sấy hoặc phơi khô, tán bột, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 15-20 g. Vừng đen 100 g sắc uống hàng ngày. Uống nước ép vòi voi hoặc măng tre tươi hằng ngày. Rễ hoặc lá cây ngưu bàng sắc uống thay trà.
Dùng nhiều vị: Hạt tía tô và hạt cải củ lượng bằng nhau, sao thơm tán bột, mỗi ngày uống 9 g với nước sắc rễ cây dâu (tang bạch bì). Hạt dưa hấu 50 g giã nát, hòa với nước rồi lọc bỏ bã, đem nấu với 30 g gạo tẻ thành cháo ăn.
Bột hoài sơn 2 phần, bột ý dĩ 1 phần trộn đều, mỗi ngày dùng 90 g với nước sôi ăn. Củ cải 5 củ, rửa sạch, thái miếng luộc lấy nước nấu với 100 g gạo tẻ thành cháo ăn hàng ngày. Lá hồng 30 g, đậu xanh 30 g, sắc uống. Hoa đậu ván trắng 30 g, mộc nhĩ đen 30 g, sấy khô, tán thành bột mịn, mỗi ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 3-5 g.
Vỏ bí xanh 15 g, vỏ dưa hấu 15 g, thiên hoa phấn 12 g, sắc uống. Cá diếc 500 g, trà xanh 10 g, cá làm sạch, bỏ ruột rồi nhồi trà xanh vào trong bụng, hấp cách thủy, chia ăn vài lần trong ngày.
Lá khoai lang 100 g, thiên hoa phấn 20 g, ngọc trúc 15 g, sắc uống. Ngân nhĩ (mộc nhĩ trắng) 15 g, ngọc trúc 20 g, đường phèn 25 g, sắc mộc nhĩ và ngọc trúc lấy nước hòa đường phèn uống.

Khi bạn bị cảm lạnh hoặc cúm, đường máu thường bị tăng lên nhiều. Do vậy, bạn phải thử đường máu nhiều lần/ngày. Bạn cũng cần phải uống đủ nước và nạp đủ năng lượng để vượt qua những ngày khó khăn đó. Chế độ ăn hợp lý sẽ giúp bạn nhanh chóng hồi phục và giữ cho đường máu tăng không quá cao hoặc bị hạ quá thấp.

 Khi bị ốm vẫn cần đáp ứng nhu cầu của cơ thể
Trong những ngày ốm yếu, bạn cố gắng giữ cho chế độ ăn gần giống những ngày bình thường nhất. Nếu như dạ dày chỉ có cảm giác đầy, bạn vẫn có thể ăn được như mọi ngày với các thực phẩm như cháo, súp, bánh quy…
Nếu những thức ăn này vẫn khó vào, bạn có thể thử nước quả, nước giải khát ít ngọt, sữa chua… Thông thường bạn vẫn cần ăn chừng 30-40g chất bột – đường sau mỗi 3-4 giờ vào những ngày ốm này.
Trường hợp không biết rõ loại thức ăn và khối lượng ăn, hãy hỏi bác sĩ của bạn. Một số loại thuốc trị cảm cúm và ho có chứa đường trong đó: đọc kỹ thông tin trước khi uống, giảm trừ lượng bột – đường được phép ăn. Nước uống cũng cần được cung cấp đủ, nếu bị sốt hoặc nôn, phải uống nhiều hơn mọi ngày. Nếu như đường máu tăng cao nhiều, bạn phải xem lại chế độ ăn và thuốc đang dùng. Hỏi bác sĩ để có chỉ dẫn trong trường hợp cụ thể này.
Khi nào người bệnh đái tháo đường ốm yếu cần đến bệnh viện?
Khi lâm vào các tình huống sau, bạn nhất định phải trao đổi với bác sĩ, thậm chí đi nằm viện:
- Tình trạng ốm yếu hoặc sốt sau vài ngày không tiến triển khá hơn.
- Nôn hoặc đi ngoài sau 6 giờ không thuyên giảm.
- Có nhiều thể ceton trong nước tiểu.
- Nếu đang tiêm insulin: đường máu >15mmol/l (hoặc>240mg/dl), mặc dù đã tiêm thêm insulin theo chỉ định của bác sĩ.
- Nếu bạn chỉ dùng thuốc viên hạ đường huyết: đường máu cũng tăng trên 15mmol/l (hoặc >240mg/dl) suốt 24 giờ.
Có các biểu hiện mất nước nguy hiểm: khó thở, hơi thở có mùi hoa quả chín, đau ngực, khô nứt môi và lưỡi, tiểu rất ít.
Ăn cháo ngày ốm: dễ làm và bổ dưỡng.
Trong những ngày ốm yếu, nếu không ăn được đồ ăn thông thường, có thể nấu cháo theo công thức sau cho vào phích ủ ấm ăn dần trong ngày:
Thực đơn nấu cháo: (xem bảng)
Ngoài ra, nếu ăn thêm các thực phẩm khác như sữa, nước cam… có thể ước lượng số calo và lượng đường như sau:
- 200ml sữa bò tươi: + 150 kcal (10g glucid; 9g lipid; 8g protid).
- 200ml nước cam vắt không đường: + 80kcal (20g glucid).
- Truyền 500ml dịch glucose 5%: + 100kcal (25g glucid).
Truyền 500ml dịch glucose 10%: + 200kcal (50g glucid).
ThS. BS. Nguyễn Huy Cường
Khi bị ốm vẫn cần đáp ứng nhu cầu của cơ thể
Trong những ngày ốm yếu, bạn cố gắng giữ cho chế độ ăn gần giống những ngày bình thường nhất. Nếu như dạ dày chỉ có cảm giác đầy, bạn vẫn có thể ăn được như mọi ngày với các thực phẩm như cháo, súp, bánh quy…
Nếu những thức ăn này vẫn khó vào, bạn có thể thử nước quả, nước giải khát ít ngọt, sữa chua… Thông thường bạn vẫn cần ăn chừng 30-40g chất bột – đường sau mỗi 3-4 giờ vào những ngày ốm này.
Trường hợp không biết rõ loại thức ăn và khối lượng ăn, hãy hỏi bác sĩ của bạn. Một số loại thuốc trị cảm cúm và ho có chứa đường trong đó: đọc kỹ thông tin trước khi uống, giảm trừ lượng bột – đường được phép ăn. Nước uống cũng cần được cung cấp đủ, nếu bị sốt hoặc nôn, phải uống nhiều hơn mọi ngày. Nếu như đường máu tăng cao nhiều, bạn phải xem lại chế độ ăn và thuốc đang dùng. Hỏi bác sĩ để có chỉ dẫn trong trường hợp cụ thể này.
Khi nào người bệnh đái tháo đường ốm yếu cần đến bệnh viện?
Khi lâm vào các tình huống sau, bạn nhất định phải trao đổi với bác sĩ, thậm chí đi nằm viện:
- Tình trạng ốm yếu hoặc sốt sau vài ngày không tiến triển khá hơn.
- Nôn hoặc đi ngoài sau 6 giờ không thuyên giảm.
- Có nhiều thể ceton trong nước tiểu.
- Nếu đang tiêm insulin: đường máu >15mmol/l (hoặc>240mg/dl), mặc dù đã tiêm thêm insulin theo chỉ định của bác sĩ.
- Nếu bạn chỉ dùng thuốc viên hạ đường huyết: đường máu cũng tăng trên 15mmol/l (hoặc >240mg/dl) suốt 24 giờ.
Có các biểu hiện mất nước nguy hiểm: khó thở, hơi thở có mùi hoa quả chín, đau ngực, khô nứt môi và lưỡi, tiểu rất ít.
Ăn cháo ngày ốm: dễ làm và bổ dưỡng.
Trong những ngày ốm yếu, nếu không ăn được đồ ăn thông thường, có thể nấu cháo theo công thức sau cho vào phích ủ ấm ăn dần trong ngày:
Thực đơn nấu cháo: (xem bảng)
Ngoài ra, nếu ăn thêm các thực phẩm khác như sữa, nước cam… có thể ước lượng số calo và lượng đường như sau:
- 200ml sữa bò tươi: + 150 kcal (10g glucid; 9g lipid; 8g protid).
- 200ml nước cam vắt không đường: + 80kcal (20g glucid).
- Truyền 500ml dịch glucose 5%: + 100kcal (25g glucid).
Truyền 500ml dịch glucose 10%: + 200kcal (50g glucid).

Thứ Tư, 18 tháng 9, 2013

Nếu bạn bị đái tháo đường mà coi nhẹ việc kiểm soát đường huyết thì sẽ dễ bị bệnh suy tim. Đó là một kết luận mới nhất được công bố trên tạp chí khoa học Lancet.

Đây là công trình nghiên cứu của các nhà khoa học Thụy Điển trong một nỗ lực nhằm tìm ra các nguy cơ cụ thể của bệnh tim mạch trên bệnh nhân bị đái tháo đường type 1. Công trình điều tra trên 20.985 bệnh nhân bị bệnh đái tháo đường type 1. Toàn bộ những người này được phỏng vấn và theo dõi các chỉ số nguy cơ của tim mạch như tuổi, LDL, HDL, HbA1c, đường huyết, huyết áp...

Kết quả cho thấy, trong toàn bộ số bệnh nhân bị bệnh đái tháo đường type 1 có 3% số trường hợp bị bệnh suy tim. Điều đáng nói là trong số những bệnh nhân này đều có đường huyết tăng cao rõ và chỉ số HbA1c tăng cách biệt. Chỉ số HbA1c là một chỉ số phản ánh mức độ kiểm soát đường huyết của người bệnh. Điều này cho thấy hầu như những bệnh nhân bị suy tim đều kiểm soát đường huyết rất kém. Theo như những gì tính toán, nếu chỉ số HbA1c tăng lên 1% thì nguy cơ gây ra suy tim là 30%, độc lập so với các yếu tố nguy cơ khác như LDL.
Điều này cho thấy, nếu bạn không muốn quả tim mình chóng suy tàn thì chỉ còn một cách là kiểm soát đường huyết cho tốt. Đây là chìa khoá với người đái tháo đường type 1.

Với người bệnh đái tháo đường (ĐTĐ), tùy theo thể trạng, bác sĩ sẽ lựa chọn thuốc hoặc kết hợp thuốc thích hợp. Tuy nhiên, những lo lắng của bệnh nhân và gia đình thường là có quá nhiều thuốc khác nhau, thuốc có tác dụng phụ không, nhất là thuốc được uống lâu dài.

Phân loại thuốc điều trị ĐTĐ
Ngày nay, có rất nhiều loại thuốc chữa bệnh ĐTĐ với tên gọi và cách thức làm giảm đường máu khác nhau.
- Thuốc làm tăng nhạy cảm insulin: biguanide (metformin); thiazolidinedione (rosiglitazone, pioglitazone); ức chế men DPP-IV (sitagliptine); đồng phân của GLP-1 (exenatide).
- Thuốc gây tăng tiết insulin: sulphonylurea (glibenclamide; glipizide; gliclazide; glimepiride); glinide (netiglinide; repaglinide).
- Thuốc làm chậm hấp thu đường glucose/chất béo từ ruột: thuốc ức chế men tiêu hóa chất bột-đường alpha glucosidase (acarbose); thuốc ức chế men tiêu mỡ lipase (orlistat).
- Insulin: insulin tác dụng nhanh; insulin tác dụng ngắn; insulin tác dụng trung bình; insulin tác dụng chậm; insulin trộn sẵn.
Tác dụng phụ của thuốc ĐTĐ
Tất cả các loại thuốc đều có tác dụng phụ (kể cả thuốc Đông y), nhưng đa số các tác dụng phụ của các thuốc điều trị ĐTĐ thường không trầm trọng.
Trước tiên cần phân định rõ tác dụng tốt và mong muốn của thuốc nhưng bị “thái quá”. Tất cả thuốc điều trị ĐTĐ đều làm giảm đường máu. Một số thuốc khi được dùng không thích hợp, ví dụ như: dùng liều quá cao hoặc bệnh nhân bỏ bữa ăn, có thể gây ra trạng thái hạ đường huyết – nghĩa là đường máu xuống thấp hơn mức bình thường. Nếu không kịp thời điều chỉnh đường máu tăng trở lại (ăn uống thêm chất bột đường), hạ đường huyết nặng có thể dẫn đến mất ý thức và hôn mê. Để tránh bị hạ đường huyết cần lưu ý đến việc tăng liều thuốc từ từ, phân bổ bữa ăn sao cho phù hợp với lượng thuốc đang dùng, tránh ăn kiêng thái quá...

Hầu hết các tác dụng phụ của thuốc đã được biết đến rõ và đa số các tác dụng phụ này sẽ biến mất khi ngừng thuốc và không để lại di chứng về sau.
Một trong những tác dụng phụ cần nói đến là dị ứng thuốc. Biểu hiện bằng ban mẩn ngứa trên da, sưng nề mắt và mặt. Tác dụng phụ này có thể điều trị đơn giản bằng cách ngừng thuốc. Cần nhớ rằng phản ứng dị ứng luôn luôn quay trở lại nếu như ta lại tiếp tục uống thứ thuốc đó. Do vậy, không nên tiếc mà sử dụng lại thuốc dưới bất kỳ dạng nào.
Một số thuốc lại gây rối loạn tiêu hóa: đầy bụng hoặc tiêu chảy (metformin – glucophage). Tác dụng phụ này có thể tránh được khi sử dụng với liều thấp hơn và uống sau khi ăn. Nếu vẫn còn cảm giác đầy bụng và bị tiêu chảy sau khi đã sử dụng theo đúng khuyến cáo, chắc chắn phải ngưng uống metformin.
Đôi khi triệu chứng đầy bụng và tiêu chảy lại chính là tác dụng của thuốc. Đó là trường hợp bệnh nhân uống acarbose (glucobay), vì thuốc này làm chậm quá trình tiêu hóa chất bột đường trong lòng ruột, do vậy sẽ có cảm giác đầy chướng bụng. Tác dụng phụ này không gây vấn đề nghiêm trọng lâu dài, nó có thể đỡ hoặc không còn khi giảm liều thuốc (hoặc là ngưng sử dụng thuốc).
Hiếm gặp hơn là các tác dụng phụ trên gan, thận khi uống sulphonylurea hoặc chất ức chế DPP-IV. Có thể phát hiện dễ dàng bằng xét nghiệm máu. Những tác dụng phụ này sẽ hết khi ngưng uống thuốc.
Một số thuốc gây giữ nước và có thể gây tác dụng xấu cho những bệnh nhân suy tim. Do vậy, những thuốc này (rosiglitazone và pioglitazone) không được dùng cho bệnh nhân bị suy giảm chức năng tim.
Trên đây chỉ là một số tác dụng phụ thường gặp nhất. Phần lớn tác dụng phụ này sẽ tránh được nếu sử dụng thuốc một cách thích hợp. Bác sĩ sẽ lựa chọn thuốc phù hợp với từng bệnh nhân sao cho điều chỉnh tốt nhất đường máu với ít tác dụng phụ nhất.
Thuốc trị ĐTĐ gây suy thận?
Đây là quan niệm sai lầm, bởi bệnh thận do ĐTĐ rất phổ biến, nhất là ở những bệnh nhân điều trị không tốt. Vì thế, nhiều người cho rằng bệnh thận ĐTĐ là do quá trình uống thuốc điều trị lâu dài gây ra.
Trên thực tế, việc điều trị tốt bệnh ĐTĐ bằng thuốc giúp giảm thiểu khả năng bị bệnh thận do ĐTĐ (việc làm giảm 1% HbA1c sẽ giúp làm giảm biến chứng mạch máu nhỏ như bệnh võng mạc, bệnh thần kinh, bệnh thận do ĐTĐ khoảng 30%). Lý do là vì khi bị suy thận, nhiều loại thuốc không được tiếp tục sử dụng nữa vì thuốc không thải loại ra khỏi cơ thể được như trước dẫn đến hiện tượng tích lũy thuốc và do đó bệnh nhân dễ có nguy cơ bị hạ đường huyết hơn (việc ngưng thuốc khiến mọi người cho là thuốc có tác dụng xấu đến thận).
Trong trường hợp như vậy, tiêm insulin là biện pháp an toàn hơn và ít có tác dụng phụ hơn.
Insulin tiêm ngày nay là insulin giống hệt cấu trúc insulin do tụy người tiết ra. Vấn đề chủ yếu là vượt qua trở ngại về mặt quan niệm rằng tiêm insulin làm bệnh của mình đã nặng lên, rằng tiêm insulin gây nhiều phức tạp cho cuộc sống.
Ngày nay, với những bút tiêm insulin hiện đại, tiêm insulin rất thuận lợi và gần như không đau, vì vậy cũng giúp cho bệnh nhân dễ chấp thuận dùng insulin hơn trước rất nhiều.

Một cuộc nghiên cứu mới cho thấy người cao tuổi bị tiền tiểu đường, tiểu đường týp 2 thường bị giảm kích thước não và khả năng trí tuệ một cách nhanh chóng chỉ trong vòng 2 năm, theo Science Daily.

Một nhóm nghiên cứu Úc do phó giáo sư Katherine Samara thuộc Viện Nghiên cứu Y học Garvan chủ trì, nhận thấy bộ não lão hóa dễ dẫn đến tình trạng lượng đường trong máu tồi tệ hơn thậm chí trước khi có thể chẩn đoán ra bệnh tiểu đường týp 2.
Dù thể tích não giảm là chuyện bình thường của quá trình lão hóa nhưng các chuyên gia nhận thấy người cao tuổi có lượng đường trong máu không ổn định và mắc bệnh tiểu đường týp 2 mất thể tích não cao gấp khoảng 2,5 lần trong 2 năm so với người cùng tuổi. Việc giảm kích thước thùy não trước có ảnh hưởng rất lớn đến chức năng nhận thức cũng như chất lượng cuộc sống.
Trong cuộc nghiên cứu, các chuyên gia đã so sánh ảnh chụp cộng hưởng từ của 312 đối tượng tham gia từ lúc bắt đầu cho đến kết thúc 2 năm nghiên cứu. Những người này đều ở độ tuổi từ 70 - 90 và không bị chứng mất trí nhớ. Lúc bắt đầu cuộc nghiên cứu, 41% trong số đó bị tiền tiểu đường và 13% bị tiểu đường týp 2.
Khi kết thúc cuộc nghiên cứu, những người tham gia được phân thành 4 nhóm: Người có lượng glucose ổn định, bình thường (nhóm 1, với 102 người), người bị tiền tiểu đường ổn định (nhóm 2, 120 người), người có lượng glucose trở nên xấu đi (nhóm 3, 57 người) và người bị tiểu đường loại 2 từ đầu (nhóm 4, 33 người).
Các ảnh chụp cộng hưởng từ cho thấy rằng nhóm 1 mất trung bình 18,4 cm3 tổng dung tích não trong 2 năm. Trong khi đó, nhóm 2 mất gấp 1,4 lần nhóm 1 (26,6 cm3). Cả nhóm 3 và nhóm 4 mất dung tích não gấp 2,3 lần nhóm 1 (lần lượt 41,7 cm3 và 42,3 cm3).
Nhóm nghiên cứu kết luận rằng tình trạng đường huyết của một người sau 2 năm có thể là công cụ đáng kể giúp tiên đoán mức độ suy giảm thể tích não.
“Chúng ta cần biết cách ngăn chặn những ảnh hưởng tiêu cực của bệnh tiểu đường đối với bộ não”, phó giáo sư Samara nói.

Tại sao bệnh đái tháo đường lại gây rối loạn cương dương?

Tình trạng cương của dương vật được duy trì bởi việc đổ đầy máu vào các khoảng trống trong thể hang từ các động mạch.

Những kích thích về thần kinh và giới tính tại chỗ sẽ làm gia tăng tình trạng tiết một chất hóa học là nitric oxide từ dây thần kinh của thể hang và các tế bào nội mạch.
Chất này ức chế hệ thần kinh giao cảm và kích thích hệ phó giao cảm để làm gia tăng lượng máu đến thể hang, đồng thời làm cản trở dòng máu trở về bằng đường tĩnh mạch.
Khi đó sẽ làm tăng thể tích của dương vật tạo nên tình trạng cương và cứng để giao hợp.
Bệnh tiểu đường týp 2 sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến tình trạng cương cứng của dương vật bệnh nhân do nhiều nguyên nhân. Trong đó quan trọng nhất là tình trạng tổn thương của dây thần kinh lưng dương vật, tình trạng rối loạn của hệ thần kinh thực vật, tổn thương của các mạch máu lớn và các mạch máu nhỏ trong cơ thể bệnh nhân.
Đặc biệt là các mạch máu của thể hang. Tình trạng tiểu đường còn làm giảm đáp ứng của các mạch máu trong thể hang và sự co giãn của các bè cơ trơn của dương vật với nitric oxide.
Ngoài ra, các rối loạn về tâm thần kinh thường gặp ở những bệnh nhân tiểu đường như: tình trạng kích động, lo lắng quá mức, trầm cảm… cũng ảnh hưởng rất nhiều đến tình trạng cương của dương vật.
Có nhiều người bệnh tiểu đường bị rối loạn cương dương không?
Theo những thống kê ở nước ngoài thì tình trạng rối loạn cương dương chiếm vào khoảng từ 20 - 71% những người đàn ông bị bệnh tiểu đường.
Nguy hại hơn nữa khi các nhà chuyên môn thấy rằng: những người bị tiểu đường hay bị rối loạn cương dương gấp 3 lần và tình trạng rối loạn này lại nặng hơn so với những người không bị bệnh tiểu đường.
Tình trạng rối loạn cương dương ở những bệnh nhân bị tiểu đường xảy ra ở tuổi trẻ hơn và ngay trong giai đoạn sớm của bệnh.
Có tới 56% bệnh nhân đái tháo đường bị rối loạn cương dương ngay trong 5 năm đầu tiên của bệnh và có rất nhiều trường hợp rối loạn cương dương là triệu chứng đầu tiên của bệnh tiểu đường.
Bệnh nhân khi đi khám bệnh tại một phòng khám nam khoa được đi xét nghiệm về đường máu và đường niệu mới biết mình bị tiểu đường.
Một trong những yếu tố nguy cơ quan trọng nhất của tình trạng rối loạn cương dương ở bệnh nhân tiểu đường là tuổi tác. Càng lớn tuổi tình trạng bệnh càng nặng nề.
Ở những bệnh nhân tiểu đường trẻ hơn có thể bị rối loạn cương dương khi sử dụng một số loại thuốc trị bệnh như: thuốc chống tăng huyết áp, thuốc tâm thần, thuốc chống co giật, thuốc nội tiết…
Ngoài ra, còn có những yếu tố nguy cơ khác thường thấy là: thời gian bị bệnh tiểu đường càng bị lâu càng dễ bị rối loạn cương dương, việc kiểm soát đường huyết không tốt do bệnh nhân không điều trị hoặc điều trị không đúng quy cách, bệnh nhân hút thuốc lá, nghiện rượu, trầm cảm hay bị các bệnh khác đi kèm.
Chẩn đoán bệnh có dễ không?
Hoàn toàn không dễ một chút nào, vì khi bệnh nhân đến khám tại các phòng khám và bệnh viện, do môi trường tiếp xúc quá đông đúc nên bệnh nhân cũng rất ngại nói ra điều mà họ coi như là “sức mạnh và niềm tự hào của người đàn ông”.
Trong khi đó, những nhân viên Y tế cũng chưa thật sự quan tâm đến điều này, thậm chí có người còn cho đó là điều nhảm nhí không đáng quan tâm.
Khi nghi ngờ bệnh nhân bị bệnh rối loạn cương dương thì người thầy thuốc và bệnh nhân phải có một cuộc trao đổi thẳng thắn, trong đó có vai trò rất quan trọng của người vợ. Họ phải được tham gia cuộc nói chuyện như là một yếu tố quan trọng giúp cho việc chẩn đoán.

Bệnh nhân phải được khám kỹ càng, ngoài các xét nghiệm về đường máu và đường niệu, bệnh nhân phải được khai thác tiền sử bệnh một cách rõ ràng. Vì tình trạng rối loạn này xảy ra ở những bệnh nhân tiểu đường một cách từ từ theo thời gian.
Trong khi tình trạng rối loạn cương dương có nguyên nhân tâm thần kinh lại xảy ra đột ngột, có khi chỉ xảy ra đối với một số đối tượng nhất định.
Bác sĩ ơi bệnh em có chữa được không?
Trong một thời gian khá dài, tình trạng rối loạn cương dương ở bệnh nhân tiểu đường được coi là không có khả năng chữa trị.
Tuy nhiên, với số lượng bệnh nhân bị tiểu đường ngày càng gia tăng như hiện nay, các yêu cầu của bệnh nhân trước việc cải thiện chất lượng của cuộc sống đã đặt nền y học trước những thách thức mới và cuộc tìm kiếm những phương thức điều trị đã bắt đầu và tình trạng rối loạn cương dương ở bệnh nhân ngày càng được cải thiện, chỉ cần chúng ta quan tâm và điều trị kịp thời.
Để đạt kết quả tốt cho điều trị, bệnh nhân cần phải được điều trị bổ sung nhằm loại bỏ các yếu tố khác gây nên tình trạng này như: bỏ hút thuốc lá, hạn chế uống rượu, điều trị chứng trầm cảm, kiểm soát tốt đường máu, dùng các nội tiết tố có testosterone thay thế ở những bệnh nhân có suy giảm hàm lượng testosterone trong máu.
Viagra là thuốc cải thiện tốt tình trạng cương cứng ở 56% bệnh nhân tiểu đường, nó có hiệu quả ngay cả khi dùng liều nhỏ.
Liều dùng khởi đầu thường là 50mg, sau đó có thể tăng lên đến 100mg hay giảm xuống còn 25mg tùy theo đáp ứng của bệnh nhân. Tuy nhiên, với những người cao tuổi, bệnh tiểu đường có biến chứng nặng, suy thận, suy gan thì liều khởi đầu chỉ nên là 25mg.
Thuốc được dùng một liều duy nhất, vào khoảng 1 giờ trước khi hành sự và không được dùng liều thứ hai trong cùng một ngày.
Thuốc Apomorphine ngậm dưới lưỡi: nó có tác dụng khá nhanh và kéo dài trong khoảng 20 phút đối với 50% bệnh nhân bị rối loạn cương dương trong bệnh tiểu đường.
Liều khởi đầu khoảng 3mg, nhưng với những bệnh nhân có suy giảm chức năng gan và thận thì nên dùng liều thấp hơn, khoảng 2mg là đủ.
Các phương pháp điều trị khác kém phần hiệu quả hơn: dùng thuốc Yohimbine là một loại thuốc đã được sử dụng từ lâu, nhưng hiệu quả thường không ổn định.
Tiêm các thuốc gây giãn mạch như papaverine, thuốc có prostaglandin E1 vào thể hang. Dùng dụng cụ hút bằng chân không, tâm lý liệu pháp với những bệnh nhân có nguyên nhân tâm lý đi kèm, dùng dương vật thay thế và cuối cùng là tái tưới máu cho dương vật nhờ phẫu thuật trên mạch máu của thể hang, nhất là trên các tĩnh mạch, phẫu thuật này khá khó khăn và hiệu quả thất thường.

Ngoài các biến chứng về tim mạch (cao huyết áp, xơ vữa động mạch, tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim); thận (đạm trong nước tiểu, suy thận); mắt (đục thủy tinh thể, mù mắt); thần kinh (dị cảm, tê tay chân); nhiễm trùng (da, đường tiểu, lao phổi, bàn chân) thì bệnh mạch máu ngoại vi trong đó hay gặp nhất là bệnh mạch máu chi dưới gây hoại tử và phải cắt cụt chi là biến chứng gây ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của người bệnh.


Biến chứng mạch máu do đái tháo đường (ĐTĐ) được chia ra 2 loại: biến chứng mạch máu lớn như: bệnh động mạch vành, bệnh động mạch ngoại vi và đột quỵ; biến chứng mạch máu nhỏ như: bệnh cầu thận, bệnh thần kinh, bệnh võng mạc. Dưới đây chỉ đề cập đến biến chứng mạch máu lớn ở bệnh nhân ĐTĐ.
Bên cạnh đó, bệnh mạch máu ngoại vi cũng thường gặp ở bệnh nhân ĐTĐ. Đây là bệnh do các mạch máu đưa máu đến nuôi dưỡng chân bị tổn thương làm giảm dòng máu tới chân. Việc kém máu nuôi làm cho da chân trở nên khô, nứt nẻ, dễ bị loét và nhiễm khuẩn. Biểu hiện này thường kín đáo, khó nhận biết như: thay đổi màu sắc da, lạnh hoặc tê bì hai chân, đau chân lúc nghỉ ngơi... Tổn thương mạch máu ngoại vi, nếu phối hợp với bệnh thần kinh ngoại vi, sẽ làm vết thương lâu lành. Mặt khác, đường huyết cao là môi trường thuận lợi cho vi khuẩn phát triển và làm giảm sức đề kháng của cơ thể. Vì thế, vết thương có thể bị loét, nhiễm khuẩn, có thể tiến triển thành hoại tử nếu không được điều trị đúng và kịp thời. Khi đó nguy cơ cắt cụt chi rất cao.
Người mắc bệnh ĐTĐ trên 10 năm hoặc tuổi trên 60; kiểm soát đường huyết kém; có biến dạng bàn chân, chai chân, phồng rộp da chân...; đã từng bị loét bàn chân; có các biểu hiện của tổn thương thần kinh ngoại vi và/hoặc tổn thương mạch máu ngoại vi; giảm thị lực; có biến chứng thận; đi giày dép không phù hợp với bàn chân... Loét bàn chân dễ xảy ra nếu có nhiều yếu tố nguy cơ kể trên hoặc có một nguy cơ nhưng ở mức độ nặng

Các nhà khoa học của trường Đại học giải phẫu chân và mắt cá chân (ACFAS) vừa công bố một nghiên cứu cho thấy, nếu bạn cảm thấy nóng, ngứa ran hoặc tê bàn chân và các ngón chân, nhiều khả năng bạn đã mắc bệnh tiểu đường.

Theo phóng viên TTXVN tại Washington, các nhà khoa học Mỹ, những triệu chứng nêu trên xuất hiện là do sự cảm nhận từ thần kinh ngoại biên hay còn được gọi là "thần kinh ngoại biên bệnh tiểu đường".

Hệ thần kinh ngoại biên ở chân bị ảnh hưởng dẫn tới việc bạn cảm thấy tê chân một cách thường xuyên; thậm chí làm xuất hiện nốt viêm tấy ở kẽ ngón chân; làm ngón chân khoằn lại, gây nên hiện tượng khô da và nứt nẻ ở chân.
Ngoài ra, triệu chứng nóng, ngứa, tê bàn và các ngón chân có thể còn là triệu chứng tuyến giáp của bạn có vấn đề.
Theo các nhà khoa học, có tới 1/4 trong số 23 triệu bệnh nhân tiểu đường ở Mỹ không tự phát hiện được các triệu chứng bệnh. Chi phí cho các bệnh nhân tiểu đường tại Mỹ vào khoảng 5 tỷ USD/năm.

Thịt đỏ, đặc biệt là thịt đỏ đã chế biến như thịt lợn muối xông khói, xúc xích kẹp bánh mì (hot dog) có thể làm tăng nguy cơ đái tháo đường týp 2. Thịt đỏ càng được chế biến nhiều thì nguy cơ càng cao.

Các đối tượng tham gia nghiên cứu có khẩu phần ăn hàng ngày là 100g thịt đỏ như bít-tết hay thịt bò băm viên thì khoảng 20% tiến triển thành bệnh đái tháo đường. Những đối tượng chỉ ăn 1/2 số lượng thịt đã chế biến này như 2 lát thịt lợn muối hoặc 1 cái xúc xích thì đến 51% có nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường.
Theo các nhà nghiên cứu đối với thịt đã chế biến, chất bảo quản có chứa một hàm lượng cao nitrate có khả năng làm tăng nguy cơ đề kháng với insulin. Tiền đái tháo đường thường xảy ra khi tế bào của cơ thể trở nên đề kháng với tác dụng của insulin. Hơn nữa, thịt đỏ còn chứa một hàm lượng sắt rất cao nên khi kết hợp với số lượng sắt dự trữ trong cơ thể đã làm tăng nguy cơ gây bệnh đái tháo đường týp 2.
Từ đó khuyến cáo, nên giảm thiểu sự tiêu thụ thịt chế biến đến mức chấp nhận, cũng như giảm tiêu thụ thịt đỏ. Đừng nên coi thịt đỏ là thức ăn chính của bữa ăn, thay vào đó, chúng ta nên sử dụng những nguồn protein có lợi cho sức khỏe như sữa ít béo, ngũ cốc, thịt gia cầm và cá. Ngoài ra, để giảm nguy cơ đái tháo đường týp 2, chúng ta cần điều chỉnh cân nặng, tập luyện và ăn theo khẩu phần ăn bao gồm trái cây, rau xanh, ngũ cốc, sản phẩm sữa chứa ít chất béo và thịt nạc trắng.

Thứ Ba, 17 tháng 9, 2013

Chế độ ăn uống rất quan trọng ở người có bệnh đái tháo đường (thường gọi là tiểu đường). 

Dưới đây là một số thực phẩm, bài thuốc theo hướng dẫn của lương y Quốc Trung và Như Tá dùng thích hợp cho người có bệnh này.
- Mỗi ngày dùng khoảng 0,5 kg thân cây đậu bắp còn tươi, cắt thành lát nhỏ (nếu dùng loại đã phơi khô thì chừng 100 gr là được) đem nấu với 2 lít nước. Nấu sôi và khi lượng nước trong nồi còn lại chừng 1 lít là được. Để nguội và dùng hết trong ngày.

Lá lô hội - Ảnh: H.Mai
- 20 gr dây khổ qua đã phơi khô, cùng 20 gr cây ô rô phơi khô, và 20 gr lá lô hội, đem nấu nước để uống trong ngày.
- Lấy 200 - 300 gr lá lô hội còn tươi, rửa sạch, tước bỏ vỏ, chỉ lấy phần thịt màu trắng trong của lá, rồi cho vào cùng khoảng 1 chén nước, ép (hoặc có thể dùng máy xay thay cho ép) lấy nước uống hết trong ngày.
- Dùng 100 gr lá ổi non còn tươi đem nấu nước uống hết trong ngày.
- 30 gr râu bắp, 60 gr rau muống (chỉ dùng cọng rau) đem rửa sạch rồi nấu lấy nước dùng trong ngày.
- Vỏ bí đao, vỏ dưa hấu, thiên hoa phấn - mỗi loại khoảng 20 gr, đem nấu lấy nước để uống cả ngày.
* 30 gr hoa đậu ván (loại hoa có màu trắng), 30 gr nấm mèo, đem cả hai phơi khô, rồi tán thành bột mịn, trộn đều với nhau, cho vào lọ đậy kín để dành dùng dần. Mỗi lần dùng 2 muỗng cà phê bột này pha với nước chín để nguội. Mỗi ngày dùng 3 lần.
- Củ khoai lang có màu trắng còn tươi, bào lấy phần vỏ (chừng 50 gr) rồi đem vỏ này nấu lấy nước uống hết trong ngày.
- Hằng ngày có thể dùng đậu đũa hay đậu bắp đem luộc chín để ăn - mục đích là để giảm bớt lượng cơm, vì cơm chứa nhiều tinh bột.
- Dùng 0,5 kg rau cần tây còn tươi đem rửa sạch, giã nhuyễn rồi cho vào 1 chén nước chín để nguội, vắt (hoặc ép) lấy nước để dùng, bỏ xác.
Ngoài ra, người có bệnh tiểu đường cần hạn chế lượng đường, hạn chế các món ăn ngọt; hạn chế thức ăn chứa nhiều tinh bột, thức ăn chứa nhiều cholesterol... Cần dùng nhiều rau củ quả tươi chứa nhiều chất xơ.

Thời tiết nóng nực có thể ảnh hưởng đến đường máu theo cả 2 chiều hướng: tăng và hạ đường máu.

 

Biến đổi khí hậu làm cho thời tiết càng trở nên gay gắt: trời nóng hơn và thay đổi nhanh hơn. Với người bình thường đã cảm thấy khó thích nghi và khó chịu. Với người tiểu đường, thời tiết quá nóng bức còn thêm nguy cơ tăng hoặc giảm đường máu.
Lý do:
Thời tiết nóng bức làm mất nước qua mồ hôi và hơi thở khiến cho máu bị cô đặc và do vậy đường máu tăng cao. Nếu bạn dùng nhiều nước ép quả hoặc nước ngọt giải khát thì đường máu còn có thể tăng rất cao.
Người tiểu đường cần phải uống nước đều đặn cả ngày. Chủ yếu là nước lọc, và hãy uống ngay cả khi chưa cảm thấy khát.
Mặt khác, người tiểu đường đồng thời đối diện với nguy cơ bị hạ đường máu khi trời quá nóng bức. Thời tiết nóng làm gia tăng chuyển hóa, với những người tiêm insuin thì insulin tại nơi tiêm có xu hướng hấp thu nhanh hơn (do mạch máu dưới da giãn hơn) nên đường máu có thể thấp hơn bình thường. Thời tiết quá nóng cũng làm cho chúng ta mệt mỏi, chán ăn. Vì vậy nguy cơ hạ đường máu cũng có thể gia tăng.
Các triệu chứng hạ đường máu vào những ngày nóng nực có thể khó nhận biết hơn bình thường: dấu hiệu vã mồ hôi hoặc cảm giác mệt mỏi được cho là do trời nóng cũng có thể là triệu chứng của hạ đường máu.
Bạn cần phải thử đường máu thường xuyên hơn nếu đi du lịch trong những ngày hè. Liều insulin có thể cần phải thay đổi nếu bạn từng có những rắc rối liên quan đến thời tiết nóng bức. Hãy trao đổi với bác sỹ về chủ đề đó trước khi khởi hành.

Bị thừa cân, ít vận động, nạp calo nhiều, ăn nhiều đường và chất béo là lý do làm gia tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường. Theo trang tin healthmeup.com dẫn nguồn từ các chuyên gia dinh dưỡng Ấn Độ, có một số loại thực phẩm có thể giúp ngừa bệnh tiểu đường.

Quế
Quế có rất nhiều lợi ích cho sức khỏe. Nó giúp giảm đường huyết. Quế cũng có công dụng giảm lượng chất béo triglyceride, cholesterol xấu LDL và cải thiện độ nhạy insulin. Có thể rắc một chút bột quế vào cà phê hoặc bánh mì nướng.
Nghệ
Nhiều nghiên cứu xác nhận curcumin, một hợp chất được tìm thấy trong củ nghệ, có thể giúp trì hoãn bệnh tiểu đường.
 Dinh dưỡng ngăn ngừa tiểu đường
 Quế - Ảnh: Shutterstock
Dâu tây
Dâu tây không chỉ ngon mà còn có công dụng điều trị bệnh. Các nhà khoa học cho biết, ăn dâu tây giúp kích hoạt một loại protein trong cơ thể làm giảm cholesterol xấu LDL và lipid trong máu. Cả hai yếu tố này góp phần gây bệnh tiểu đường.
Ngoài ra, các nhà khoa học tiến hành thí nghiệm trên chuột và nhận thấy rằng ăn dâu tây giúp giảm lượng đường trong máu.
Phô mai và sữa chua
Ở đây là loại phô mai và sữa chua ít chất béo. Các chuyên gia tin rằng những vi khuẩn lành mạnh có trong các sản phẩm sữa lên men góp phần ngừa bệnh tiểu đường.
Rượu vang đỏ
Resveratrol, một hợp chất có trong rượu vang đỏ giúp cải thiện chức năng của đường trong máu bằng cách điều chỉnh nội tiết tố insulin. Tuy nhiên, các chuyên gia khuyên nên uống rượu vang đỏ ở mức điều độ.
Táo
Anthocyanin, một hợp chất có nhiều trong táo, có tác dụng điều chỉnh lượng đường trong máu.
 rau bó xôi
Cải bó xôi là những thực phẩm góp phần ngừa bệnh tiểu đường - Ảnh: Hạ Huy
Cải bó xôi
Cải bó xôi giàu chất dinh dưỡng giúp cải thiện sức khỏe. Một nghiên cứu ở Anh cho thấy ăn cải bó xôi mỗi ngày giúp giảm 14% nguy cơ bị tiểu đường.
Design by Hao Tran -
Hao Tran