Hiển thị các bài đăng có nhãn insulin. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn insulin. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 10 tháng 10, 2013

Những lời khuyên hữu ích giúp bạn kiểm soát bệnh tiểu đường cực kỳ hiệu quả - Tiểu đường là căn bệnh nguy hiểm và ngày có chiều hướng gia tăng. Để phòng ngừa và giảm thiểu các biến chứng tiểu đường, bạn hãy thực hiện những lời khuyên sau:

1. Những lời khuyên hữu ích
-         Thực hiện đúng khẩu phần ăn hàng ngày.
-         Không bỏ bữa đặc biệt nếu đã điều trị bằng insulin bởi vì lượng đường trong máu có thể xuống quá thấp
-         Đi khám bác sĩ trước khi bắt đầu hoạt động thể chất
-         Kiểm tra lượng đường trong máu trước, trong và sau khi tập thể dục. Không tập thể dục khi lượng đường trong máu cao và hàm lượng xeton trong máu và nước tiểu cao.
-         Không tập thể dục ngay trước khi đi ngủ vì nó có thể làm cho lượng đuòng huyết xuống thấp vào ban đêm

Nên tập các bài tập thể dục nhẹ nhàng và thường xuyên
2. Ghi chép các thông số hàng ngày
-  Hàm lượng đường trong máu
- Thời gian tiêm insulin
- Số lượng và loại insulin đã tiêm
- Hàm lượng xeton có trong máu hoặc nước tiểu
loi khuyen kiem soat benh tieu duong
Nên có cuốn sổ ghi chép lại các thông tin
3. Mẹo
- Gặp bác sĩ nếu lượng đường huyết liên tục xuống thấp đặc biệt là cùng một thời điểm trong ngày hoặc nhiều lần vào ban đêm.
- Cho bác sĩ điều trị biết nếu lượng đường trong máu đã vượt qua ngưỡng thấp
- Hỏi bác sĩ về việc sử dụng glucagan. Glucagan là một loại thuốc làm tăng đường huyết.
- Sử dụng tiêm insulin nếu tình trạng bệnh nặng thêm.. Hãy hỏi bác sĩ về cách sử dụng và liều lượng insulin dựa trên các kết quả kiểm tra đường huyết

loi khuyen kiem soat benh tieu duong
Gặp bác sĩ ngay khi có triệu chứng bất thường
4. Khi di chuyển
- Sử dụng túi cách nhiệt đặc biệt dành cho insulin, tránh làm cho insulin quá lạnh hoặc quá nóng.
- Mang dự trữ lọ insulin đề phòng trường hợp bị vỡ hoặc kéo dài thời gian.
- Nhờ bác sĩ tư vấn về những dụng cụ và thuốc cần mang theo khi đi xa
D.P


Thứ Tư, 9 tháng 10, 2013

Đái tháo đường: Type nào nguy hiểm nhất?Dựa vào các yếu tố bệnh sinh, theo quan niệm mới, các nhà khoa học phân loại bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) thành các týp ĐTĐ như sau:

Ðái tháo đường týp 1
Đặc trưng bởi tế bào β tụy bị phá hủy, có 2 nhóm:
- Qua trung gian miễn dịch hay còn gọi là ĐTĐ týp 1a: Dấu ấn của ĐTĐ qua trung gian miễn dịch bao gồm: các tự kháng thể kháng tế bào tiểu đảo, kháng insulin (IAAs), kháng glutamic acid decarboxylase (GAD), kháng tyrosine phosphatases IA-2 và IA-2ß.
Bệnh thường gặp ở người châu Âu, xuất hiện ở trẻ em và thiếu niên, nhưng có thể xuất hiện ở bất kỳ tuổi nào. Một số bệnh nhân, đặc biệt là trẻ em và thiếu niên, có thể khởi phát bệnh với tình trạng tăng đường huyết nhiễm ceton acid. Bệnh nhân có thể trạng gầy, nhưng đôi khi có thể có béo phì. Những bệnh nhân này có thể cũng có các rối loạn miễn dịch khác như bệnh Basedow, viêm giáp Hashimoto và bệnh Addison.
- Không qua trung gian miễn dịch, còn gọi là ĐTĐ không rõ nguyên nhân, hay ĐTĐ týp 1b. Thường gặp hơn ở người gốc Phi và người gốc châu Á.

Thứ Ba, 24 tháng 9, 2013

Đông y có nhiều bài thuốc có tác dụng tốt đối với bệnh nhân tiểu đường. Nguyên tắc điều trị là toàn diện (tác động vào nhiều tạng phủ) và biện chứng (phải tùy vào từng bệnh nhân cụ thể).

Y học cổ truyền không có bệnh danh “đái tháo đường”; nhưng đối chiếu với các chứng trạng lâm sàng, căn bệnh này được quy vào phạm vi chứng “tiêu khát”. Bệnh phát sinh chủ yếu do các nguyên nhân như di truyền, ăn uống bất hợp lý, yếu tố tâm thần kinh, trường, nhiễm trùng, dùng thuốc bất hợp lý hoặc tửu sắc và lao lực quá độ.
Các nguyên nhân này làm rối loạn công năng các tạng phủ, đặc biệt là ba tạng tỳ, phế và thận, từ đó mà phát sinh tiêu khát. Chẳng hạn, việc dùng quá nhiều đồ ăn thức uống béo bổ và khó tiêu khiến cho tỳ vị bị tổn thương, mất khả năng vận chuyển và tiêu hóa thức ăn gây nên tích trệ, lâu ngày hóa nhiệt làm tổn hao âm dịch mà phát sinh thành bệnh.
Căng thẳng thần kinh kéo dài làm cho tạng can mất khả năng sơ tiết, can khí uất kết mà hóa hỏa, hỏa phía trên gây tổn thương âm dịch của phế và vị, phía dưới gây tổn thương âm dịch của thận, từ đó mà phát sinh tiêu khát…
Cũng như các bệnh lý nội khoa mạn tính khác, đối với chứng tiêu khát, nguyên tắc trị liệu của y học cổ truyền là:
Điều trị toàn diện: Xuất phát từ quan điểm chỉnh thể, coi nhân thể là một khối thống nhất. Trong trị liệu phải luôn luôn chú ý xem xét và điều chỉnh công năng tạng phủ bị bệnh trong mối quan hệ ràng buộc và tác động qua lại với tất cả các tạng phủ khác. Sử dụng tổng hợp các biện pháp như dùng thuốc và không dùng thuốc, chế độ ăn uống, sinh hoạt, tập luyện khí công dưỡng sinh…
Biện chứng luận trị: Nghĩa là phải căn cứ vào bệnh cảnh lâm sàng cụ thể, loại hình và giai đoạn bệnh, đặc điểm về thể chất, giới tính, tuổi tác… của từng người mà lựa chọn thuốc và các biện pháp trị liệu cho phù hợp.
Để chữa tiểu đường, Đông y vận dụng các liệu pháp có tính tự nhiên như dược thiện (món ăn – bài thuốc), trà dược, xoa bóp, bấm huyệt, khí công, dưỡng sinh…
Nguyên tắc này dựa trên quan điểm “thiên nhân hợp nhất”: con người và tự nhiên là thống nhất, con người khởi nguồn từ tự nhiên, dựa vào tự nhiên, phát triển cùng với tự nhiên. Con người là sản phẩm, là một bộ phận cấu thành của tự nhiên, mọi biến đổi sinh lý và bệnh lý của nhân thể luôn luôn chịu sự ảnh hưởng và chi phối của tự nhiên.
Điều trị không dùng thuốc
Là sử dụng các liệu pháp tự nhiên như châm cứu, bấm huyệt, xoa bóp, dược thiện, trà dược, cháo thuốc, dán thuốc vào huyệt, tắm thuốc, tập luyện khí công dưỡng sinh…
Chế độ ăn nên trọng dụng các loại thực phẩm như râu ngô, các chế phẩm của đậu tương và đậu đen, xích tiểu đậu, bạch biển đậu, mướp đắng, bí đỏ, bí đao, dưa hấu, tỏi, hoài sơn, hành tây, rau cần, cà rốt, củ cải, măng, hẹ, ngân nhĩ, hải tảo, tụy lợn, cá quả, cá trạch, hải sâm…
Thường xuyên dùng các loại trà dược như khổ qua trà, nam qua phấn giáng đường trà, ngọc mễ tu trà, la hán quả trà, mạch môn hoàng liên trà, hoàng tinh ngọc trúc trà, mạch đông sinh địa tiêu khát trà, cát phấn ngọc tuyền trà, dương sâm hoa phấn tiêu khát trà… Có thể dùng các loại cháo thuốc như cháo tụy lợn, cháo khổ qua, cháo địa cốt bì ngọc mễ tu, cháo đông qua dĩ nhân…
Dùng thuốc theo kinh nghiệm dân gian
Đây là phương pháp trị liệu rất đơn giản, dễ kiếm, dễ dùng, rẻ tiền và có hiệu quả ở các mức độ khác nhau. Kinh nghiệm trị liệu đái tháo đường trong dân gian là rất phong phú nhưng chưa được chú ý đúng mức và khai thác hết. Ví dụ: dùng lá ổi, rễ cây dâm bụt, rễ cây dâu tằm, mướp đắng, thiên hoa phấn, củ mài, hoàng liên sắc uống; dùng dưa hấu, cà rốt, lê, dưa chuột, bí đao, mướp đắng ép lấy nước uống hàng ngày; dùng con gián hoặc nhộng tầm sao vàng tán bột uống…
Dùng thuốc độc vị: Nhộng tằm 20 con, rửa sạch, xào ăn bằng dầu thực vật. Ô mai 15 g, hãm với nước sôi uống thay trà. Đậu đỏ để cả vỏ, sấy khô, mỗi ngày dùng 50 g nấu nước uống. Nấm mỡ lượng vừa đủ, nấu canh hoặc xào với dầu thực vật ăn hàng ngày.
Bí đao tươi 100 g, rửa sạch, ép lấy nước uống hàng ngày. Cà rốt tươi lượng vừa đủ, rửa sạch, ép lấy nước cốt uống hằng ngày. Rễ cỏ tranh 50 g, rửa sạch sắc uống thường xuyên. Ăn lê tươi hàng ngày.
Bí đỏ 250 g nấu canh ăn trong ngày. Mướp đắng sấy hoặc phơi khô, tán bột, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 15-20 g. Vừng đen 100 g sắc uống hàng ngày. Uống nước ép vòi voi hoặc măng tre tươi hằng ngày. Rễ hoặc lá cây ngưu bàng sắc uống thay trà.
Dùng nhiều vị: Hạt tía tô và hạt cải củ lượng bằng nhau, sao thơm tán bột, mỗi ngày uống 9 g với nước sắc rễ cây dâu (tang bạch bì). Hạt dưa hấu 50 g giã nát, hòa với nước rồi lọc bỏ bã, đem nấu với 30 g gạo tẻ thành cháo ăn.
Bột hoài sơn 2 phần, bột ý dĩ 1 phần trộn đều, mỗi ngày dùng 90 g với nước sôi ăn. Củ cải 5 củ, rửa sạch, thái miếng luộc lấy nước nấu với 100 g gạo tẻ thành cháo ăn hàng ngày. Lá hồng 30 g, đậu xanh 30 g, sắc uống. Hoa đậu ván trắng 30 g, mộc nhĩ đen 30 g, sấy khô, tán thành bột mịn, mỗi ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 3-5 g.
Vỏ bí xanh 15 g, vỏ dưa hấu 15 g, thiên hoa phấn 12 g, sắc uống. Cá diếc 500 g, trà xanh 10 g, cá làm sạch, bỏ ruột rồi nhồi trà xanh vào trong bụng, hấp cách thủy, chia ăn vài lần trong ngày.
Lá khoai lang 100 g, thiên hoa phấn 20 g, ngọc trúc 15 g, sắc uống. Ngân nhĩ (mộc nhĩ trắng) 15 g, ngọc trúc 20 g, đường phèn 25 g, sắc mộc nhĩ và ngọc trúc lấy nước hòa đường phèn uống.

Khi bạn bị cảm lạnh hoặc cúm, đường máu thường bị tăng lên nhiều. Do vậy, bạn phải thử đường máu nhiều lần/ngày. Bạn cũng cần phải uống đủ nước và nạp đủ năng lượng để vượt qua những ngày khó khăn đó. Chế độ ăn hợp lý sẽ giúp bạn nhanh chóng hồi phục và giữ cho đường máu tăng không quá cao hoặc bị hạ quá thấp.

 Khi bị ốm vẫn cần đáp ứng nhu cầu của cơ thể
Trong những ngày ốm yếu, bạn cố gắng giữ cho chế độ ăn gần giống những ngày bình thường nhất. Nếu như dạ dày chỉ có cảm giác đầy, bạn vẫn có thể ăn được như mọi ngày với các thực phẩm như cháo, súp, bánh quy…
Nếu những thức ăn này vẫn khó vào, bạn có thể thử nước quả, nước giải khát ít ngọt, sữa chua… Thông thường bạn vẫn cần ăn chừng 30-40g chất bột – đường sau mỗi 3-4 giờ vào những ngày ốm này.
Trường hợp không biết rõ loại thức ăn và khối lượng ăn, hãy hỏi bác sĩ của bạn. Một số loại thuốc trị cảm cúm và ho có chứa đường trong đó: đọc kỹ thông tin trước khi uống, giảm trừ lượng bột – đường được phép ăn. Nước uống cũng cần được cung cấp đủ, nếu bị sốt hoặc nôn, phải uống nhiều hơn mọi ngày. Nếu như đường máu tăng cao nhiều, bạn phải xem lại chế độ ăn và thuốc đang dùng. Hỏi bác sĩ để có chỉ dẫn trong trường hợp cụ thể này.
Khi nào người bệnh đái tháo đường ốm yếu cần đến bệnh viện?
Khi lâm vào các tình huống sau, bạn nhất định phải trao đổi với bác sĩ, thậm chí đi nằm viện:
- Tình trạng ốm yếu hoặc sốt sau vài ngày không tiến triển khá hơn.
- Nôn hoặc đi ngoài sau 6 giờ không thuyên giảm.
- Có nhiều thể ceton trong nước tiểu.
- Nếu đang tiêm insulin: đường máu >15mmol/l (hoặc>240mg/dl), mặc dù đã tiêm thêm insulin theo chỉ định của bác sĩ.
- Nếu bạn chỉ dùng thuốc viên hạ đường huyết: đường máu cũng tăng trên 15mmol/l (hoặc >240mg/dl) suốt 24 giờ.
Có các biểu hiện mất nước nguy hiểm: khó thở, hơi thở có mùi hoa quả chín, đau ngực, khô nứt môi và lưỡi, tiểu rất ít.
Ăn cháo ngày ốm: dễ làm và bổ dưỡng.
Trong những ngày ốm yếu, nếu không ăn được đồ ăn thông thường, có thể nấu cháo theo công thức sau cho vào phích ủ ấm ăn dần trong ngày:
Thực đơn nấu cháo: (xem bảng)
Ngoài ra, nếu ăn thêm các thực phẩm khác như sữa, nước cam… có thể ước lượng số calo và lượng đường như sau:
- 200ml sữa bò tươi: + 150 kcal (10g glucid; 9g lipid; 8g protid).
- 200ml nước cam vắt không đường: + 80kcal (20g glucid).
- Truyền 500ml dịch glucose 5%: + 100kcal (25g glucid).
Truyền 500ml dịch glucose 10%: + 200kcal (50g glucid).
ThS. BS. Nguyễn Huy Cường
Khi bị ốm vẫn cần đáp ứng nhu cầu của cơ thể
Trong những ngày ốm yếu, bạn cố gắng giữ cho chế độ ăn gần giống những ngày bình thường nhất. Nếu như dạ dày chỉ có cảm giác đầy, bạn vẫn có thể ăn được như mọi ngày với các thực phẩm như cháo, súp, bánh quy…
Nếu những thức ăn này vẫn khó vào, bạn có thể thử nước quả, nước giải khát ít ngọt, sữa chua… Thông thường bạn vẫn cần ăn chừng 30-40g chất bột – đường sau mỗi 3-4 giờ vào những ngày ốm này.
Trường hợp không biết rõ loại thức ăn và khối lượng ăn, hãy hỏi bác sĩ của bạn. Một số loại thuốc trị cảm cúm và ho có chứa đường trong đó: đọc kỹ thông tin trước khi uống, giảm trừ lượng bột – đường được phép ăn. Nước uống cũng cần được cung cấp đủ, nếu bị sốt hoặc nôn, phải uống nhiều hơn mọi ngày. Nếu như đường máu tăng cao nhiều, bạn phải xem lại chế độ ăn và thuốc đang dùng. Hỏi bác sĩ để có chỉ dẫn trong trường hợp cụ thể này.
Khi nào người bệnh đái tháo đường ốm yếu cần đến bệnh viện?
Khi lâm vào các tình huống sau, bạn nhất định phải trao đổi với bác sĩ, thậm chí đi nằm viện:
- Tình trạng ốm yếu hoặc sốt sau vài ngày không tiến triển khá hơn.
- Nôn hoặc đi ngoài sau 6 giờ không thuyên giảm.
- Có nhiều thể ceton trong nước tiểu.
- Nếu đang tiêm insulin: đường máu >15mmol/l (hoặc>240mg/dl), mặc dù đã tiêm thêm insulin theo chỉ định của bác sĩ.
- Nếu bạn chỉ dùng thuốc viên hạ đường huyết: đường máu cũng tăng trên 15mmol/l (hoặc >240mg/dl) suốt 24 giờ.
Có các biểu hiện mất nước nguy hiểm: khó thở, hơi thở có mùi hoa quả chín, đau ngực, khô nứt môi và lưỡi, tiểu rất ít.
Ăn cháo ngày ốm: dễ làm và bổ dưỡng.
Trong những ngày ốm yếu, nếu không ăn được đồ ăn thông thường, có thể nấu cháo theo công thức sau cho vào phích ủ ấm ăn dần trong ngày:
Thực đơn nấu cháo: (xem bảng)
Ngoài ra, nếu ăn thêm các thực phẩm khác như sữa, nước cam… có thể ước lượng số calo và lượng đường như sau:
- 200ml sữa bò tươi: + 150 kcal (10g glucid; 9g lipid; 8g protid).
- 200ml nước cam vắt không đường: + 80kcal (20g glucid).
- Truyền 500ml dịch glucose 5%: + 100kcal (25g glucid).
Truyền 500ml dịch glucose 10%: + 200kcal (50g glucid).

Có những cây cỏ quanh nhà như: mướp đắng, nha đam, húng quế… tưởng bình thường nhưng lại là những loại cây, quả được Đông y chứng minh có tác dụng chữa và giúp giảm bớt các triệu chứng do tiểu đường gây ra.

Khổ qua (mướp đắng)
Nếu bạn đang bị bệnh tiểu đường type 2, hãy uống một ly nước ép khổ qua tươi mỗi ngày. Khổ qua không những giúp giảm lượng đường huyết trong máu cho bệnh nhân tiểu đường mà theo nhiều nghiên cứu, loại quả này còn có tác dụng phòng chống ung thư, bệnh tim mạch, thần kinh…
Cây cà ri (tên gọi khác là hồ lô ba)
Cà ri là một loại gia vị truyền thống của người Ấn Độ. Loài cây này cũng được trồng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới.
Tương tự như khổ qua, cà ri cũng mang tính đắng nhưng nhẹ hơn. Tác dụng chữa bệnh tiểu đường từ phần lá và hạt cà ri đã được chứng minh qua các nghiên cứu trước đây.
TS. Deepali Shastri (bác sĩ y học cổ truyền Ấn Độ) cho biết: Bệnh nhân tiểu đường có thể hạ đường huyết bằng cách lấy một muỗng cà phê hạt cà ri đem ngâm vào cốc nước, để qua đêm, sau đó lọc lấy nước uống. Cũng có thể uống cùng với hạt, tuy nhiên nhớ uống vào đầu mỗi buổi sáng trong ngày.
Nha đam
Nha đam hay còn gọi cây lô hội, có tính hàn, vị đắng. Nha đam có nhiều tác dụng chữa bệnh như: chữa bỏng, cao huyết áp, giải nhiệt cơ thể. Chất đặc quánh trong thân cây này còn là một phương thuốc hay tại nhà giúp chữa bệnh tiểu đường.
Nha đam (lấy phần thịt bên trong thân), lá nguyệt quế trộn với nửa muỗng nghệ. Dùng hỗn hợp này cách một tiếng đồng hồ trước bữa ăn trưa hoặc ăn tối sẽ giúp bạn kiểm soát lượng đường huyết.
Cây húng quế
Húng quế và tía tô cũng có tác dụng kiểm soát bệnh tiểu đường. Lấy một nắm lá húng quế vò nát, đem luộc trong một ly nước từ đêm trước, để lọc uống vào sáng hôm sau.
Nhai một vài lá húng quế trong ngày cũng cho tác dụng tương tự.
Lá xoài
Lấy khoảng 3-4 lá xoài, rửa sạch, đun sôi, để qua đêm trong nước. Sau đó lọc nước này uống vào đầu buổi sáng trước bữa điểm tâm. Nên nhớ không áp dụng phương thuốc này nhiều lần trong một ngày, vì có thể giảm lượng đường huyết quá thấp gây ra chứng hạ đường huyết khá nguy hiểm.
Phương thuốc trên nếu thực hiện đều đặn và điều độ còn giúp chữa bệnh cảm sốt, đau ốm nhẹ.

Các nhà nghiên cứu mới đây đã đưa ra thông tin, hàng ngày ăn một quả trứng về thực chất có thể làm tăng nguy cơ phát triển bệnh tiểu đường.

Nghiên cứu chỉ ra, những người đã mắc bệnh tiểu đường loại 2 cũng như những người đang có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường mà 1 tuần ăn hơn 2 quả trứng thì có thể làm bệnh trở nên nặng hơn.
Những nhà khoa học từ trường Y Harvard Mỹ có được kết luật này sau khi làm nghiên cứu với khoảng 57.000 người đàn ông và phụ nữ trong thời gian khoảng 20 năm.
Kết quả cho thấy ăn một quả trứng hàng ngày tăng nguy cơ tiểu đường loại 2 khoảng 60%. Riêng với phụ nữ tỷ lệ này có thể lên tới 77%.
Nghiên cứu cho rằng, trứng là một loại thực phẩm tốt chứa nhiều vitamin, protein và những chất dinh dưỡng khác. Tuy vậy, trứng cũng gồm hàm lượng cholesterol cao mà có nguy cơ tăng sự phát triển  bệnh tiểu đường loại 2.
Tuy nhiên, theo thông tin từ tờ Chăm sóc sức khỏe người tiểu đường cho hay, nếu một tuần chỉ ăn một quả trứng thì cũng không gây nguy hiểm.
Bệnh tiểu đường là loại bệnh khi hàm lượng glucose trong máu quá cao do cơ thể không thể hấp thụ hết. Có 2 loại tiểu đường chính: Tiểu đường loại 1 phát triển khi cơ thể không thể sản sinh bất kỳ insulin nào. Loại tiểu đường này thường xuất hiện trước tuổi 40. Tiểu đường loại 2 phát triển khi cơ thể vẫn sản sinh insulin, nhưng không đủ hoặc khi insulin sản sinh làm việc không hết khả năng.
Nhưng nói chung, tất cả những trường hợp bị tiểu đường thường có kết nối với bệnh béo phì và bệnh béo phì thường phát triển ở lứa tuổi trên 40 .

Tiểu đường (đái tháo đường) ở trẻ em còn gọi là tiểu đường týp 1, xảy ra khi tuyến tụy không có khả năng sản xuất đủ insulin. Insulin là loại hormone (hoóc-môn) cho phép cơ thể sử dụng đường làm năng lượng.

Bệnh đái tháo đường ở trẻ em ngày càng co xu hướng gia tăng. Tuy vậy, khác với người lớn, rất khó điều trị bệnh ở trẻ em vì trẻ em đang cần nhiều dinh dưỡng để phát triển.
Những nghiên cứu gần đây cho thấy, tình trạng trẻ mắc bệnh tiểu đường type 2 ngày càng tăng là do thói quen ăn uống và lối sống thiếu lành mạnh. Thống kê ở Nhật Bản và Trung Quốc cho thấy, tỉ lệ trẻ đái tháo đường type 2/type 1 ở lứa tuổi học sinh trung học là 4/1. Còn ở nước ta, không ít lần báo giới đã lên tiếng về những trường hợp trẻ nhỏ (cấp tiểu học) mắc đái tháo đường type 2. Trường hợp nhỏ nhất là một bé 6 tuổi hiện đang điều trị tại Bệnh viện Nội tiết.
Nguyên nhân do lối sống
Đái tháo đường type 1 ở trẻ là bệnh có tính chất di truyền, do rối loạn tổng hợp insulin, rối loạn nơi sản xuất insulin, có tính chất bẩm sinh nhiều hơn, bắt buộc phải điều trị bằng insulin thay thế. Đái tháo đường type 2 vốn thường gặp ở người lớn do liên quan đến yếu tố ăn uống, béo phì, cao huyết áp, lười vận động không tiêu hao năng lượng…, phải điều trị bằng thuốc và kết hợp điều chỉnh chế độ ăn, giảm cân.
Vì vậy, theo bác sĩ Lê Thị Hải, đa phần trẻ mắc đái tháo đường type 2 ở nước ta thường gắn liền với chứng thừa cân, béo phì, do lối sống thiếu cân bằng và chứng ăn uống thiếu điều độ gây nên. Một phần nguyên nhân nữa là do nhận thức của những người làm ông bà, cha mẹ. Bác sĩ Hải cho biết, không ít trường hợp bệnh nhi đến khám ở tình trạng thừa cân, béo phì và có nguy cơ mắc đái tháo đường type 2 cực cao. Nhưng khi bác sĩ tư vấn về chế độ ăn uống thì các bậc phụ huynh lại “giãy nảy” lên mà rằng con họ chỉ hơi mũm mĩm thôi và cháu lười ăn lắm (?!)…
Trong khi đó, việc điều trị bệnh cho trẻ đái tháo đường type 2 không hề đơn giản. Thông thường, người mắc đái tháo đường type 2 ngoài dùng thuốc còn phải tuân theo một chế độ ăn kiêng cực kỳ nghiêm ngặt. Nhưng với trẻ, nhất là những trẻ đang độ tuổi phát triển, không thể bắt trẻ kiêng khem quá mức. Hơn thế nữa, với trẻ, việc tạo lập một ý thức về bệnh không dễ.
Bên cạnh đó, việc điều trị bệnh đái tháo đường không đúng sẽ gây ra những biến chứng nhất định, trong đó có hạ đường huyết. Do não trẻ em cần được cung cấp đường hằng định, nên khi hạ đường huyết sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến não, làm giảm sự phát triển của não. Kết quả giảm trí thông minh và giảm thị lực nếu tình trạng hạ đường huyết kéo dài hoặc xảy ra thường xuyên.
Những dấu hiệu và triệu chứng phổ biến của bệnh tiểu đường?
- Đi tiểu thường xuyên.
- Hay khát nước, uống nhiều nước.
- Ăn nhiều nhưng vẫn sụt cân.
- Mệt mỏi.
- Thay đổi cảm xúc.
Ăn cân bằng, vận động hợp lý
Theo bác sĩ Hải, cách hạn chế tốt nhất căn bệnh này là áp dụng một chế độ ăn lành mạnh, khoa học, giàu chất xơ và tăng cường vận động cho trẻ. Với trẻ bị đái tháo đường type 1, nhìn chung vẫn có chế độ ăn như bình thường, chỉ cần hạn chế (không phải là cấm tuyệt đối) cho trẻ ăn đồ ngọt, hạn chế tinh bột và hạn chế dùng mỡ động vật. Còn với trẻ bị đái tháo đường type 2 thì năng lượng, tinh bột trẻ ăn hàng ngày cần được tính toán chặt chẽ hơn. Bố mẹ nên cho trẻ bị đái tháo đường ăn thành nhiều bữa trong ngày vì ăn quá nhiều trong một bữa sẽ làm cho đường huyết tăng cao. Đồng thời, nên thường xuyên kiểm tra nồng độ đường trong máu của trẻ để có giải pháp thích hợp.
Bên cạnh đó, chế độ vận động luyện tập thể dục thể thao đóng một vai trò quan trọng. Trẻ giảm được cân cũng có nghĩa là đã giảm được lượng đường trong máu.
- Các thực phẩm không nên ăn: Đường ngọt, bánh kẹo, nước ngọt, kem, nước mía, các loại quả khô ướp đường như mứt, quả ngọt sấy khô như chuối, mít…
- Các thực phẩm nên hạn chế: Các quả chín quá ngọt như mít, na, chuối, nhãn, vải…; các đồ ăn chế biến sẵn như patê, xúc xích, lạp sườn, thịt hun khói…; các món ăn xào rán nhiều mỡ, bánh mỳ, mỳ tôm, cơm, các loại thịt nhiều mỡ, bơ, pho mát…
- Các thực phẩm nên ăn: Ngũ cốc nguyên hạt như ngô, khoai sọ…; các loại rau xanh như bắp cải, rau cần, rau bí, rau muống…; quả chín ít ngọt như dưa chuột, thanh long, bưởi, cam, táo ta, lê, mận…
Không cần kiêng đường
Tuy nhiên, trẻ đái tháo đường cũng không cần thiết phải kiêng đường hoàn toàn. Hiện nay, trên thị trường đã có những sản phẩm sử dụng những loại đường thay thế rất tốt cho người đái tháo đường. Đó là Isomalt với nguyên liệu được nhập khẩu từ Đức. Theo Viện Dinh dưỡng Quốc gia, đây là chất ngọt tự nhiên và an toàn. Nó có chỉ số đường huyết thấp (GI=28) và sinh ít năng lượng (1g Isomalt cho 2Kcal).
Loại đường này có thể dùng cho cả trẻ béo phì, phụ nữ mang thai. Ngoài ra, còn có một số loại đường ăn kiêng khác như: đường Acesulframe-K có các tên thương mại là Sunette, Sweet one, Sweet”n safe, đường Sucralose (tên thương mại là Splenda)… Các loại đường này ngoài việc sử dụng trực tiếp còn được các nhà sản xuất dùng để sản xuất các sản phẩm đáp ứng nhu cầu của những người “hảo ngọt” nhưng phải kiêng đường (đường mía). Ví dụ các loại bánh, kẹo không đường của Bibica (sử dụng Isomalt).
Ngoài ra, do trẻ đái tháo đường buộc phải theo một chế độ ăn kiêng nghiêm ngặt nên trẻ có khả năng bị thiếu một số chất dinh dưỡng. Các bác sĩ nhi khoa khuyên rằng, với những trường hợp này, nên cho trẻ sử dụng các thực phẩm bổ sung có nhiều chất xơ và vi chất dinh dưỡng, đặc biệt là những sản phẩm dành cho người thừa cân, béo phì.
Cần ghi nhớ những điểm quan trọng sau đây:
- Tiểu đường không truyền từ người này sang người khác. Đây là bệnh không lây nhiễm, mà có nguy cơ liên quan đến các yếu tố di truyền.
- Nguyên nhân tiểu đường týp 1 không phải là do ăn quá nhiều đường hoắc bất kì thức ăn nào khác.Tuy nhiên, khi đã mắc bệnh cần hạn chế đường.
- Bệnh tiểu đường týp 1 không mất đi khi con bạn lớn lên cũng như không thể chuyển hóa sang tiểu đường týp 2 và điều trị tiểu đường là điều trị suốt đời
Bệnh tiểu đường không được điều trị sẽ nguy hiểm thế nào?
Khi bệnh tiểu đường diễn tiến nhanh hoặc khi bệnh nhân được phát hiện muộn, trẻ sẽ trở nên mệt mỏi, kiệt sức. Nồng độ glucose và xê-ton trong máu tăng lên rất cao, tình trạng mất nước nặng xuất hiện, trẻ sẽ hôn mê.
Hiện tượng trên gọi là nhiễm xê-ton a-xít
Giai đoạn phát bệnh có thể cực kỳ nhanh chóng ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Các dấu hiệu và triệu chứng thường khó nhận biết ở trẻ lớn tuổi hơn.
Chúng ta có nên làm xét nghiệm tầm soát bệnh tiểu đường cho tất cả những đứa con của chung ta không?
Cần, vì việc chẩn đoán bệnh tiểu đường rất đơn giản. Nếu thấy các triệu chứng của bệnh tiểu đường, các bác sĩ sẽ thực hiện xét nghiệm nước tiểu (tìm glucose và xê-ton) và xét nghiệm máu (đánh giá lượng đường huyết). Bình thường thì nước tiểu không chứa glucose, glucose chỉ có thể tràn vào nước tiểu khi lượng đường trong máu cao. Nếu còn nghi ngờ, có thể làm thêm một xét nghiệm máu nữa gọi là xét nghiệm dung nạp glucose.

Hầu hết mọi người đều nghĩ rằng chỉ có người lớn mới mắc bệnh tiểu đường nhưng trên thực tế thì đã có rất nhiều trẻ bị căn bệnh nguy hiểm này. Vậy làm thế nào để phòng tránh và nếu bị tiểu đường, trẻ cần được chăm sóc như thế nào?…

Tiểu đường tuýp 1 là loại tiểu đường thường gặp ở trẻ em, chiếm 90 95% trẻ dưới 16 tuổi. Đó là lý do tại sao tuyến tuỵ không thể sản sinh insulin.
Tiểu đường tuýp 1 được phân loại giống như một bệnh tự động miễn dịch, điều đó có nghĩa là hệ thống miễn dịch của cơ thể sẽ tấn công vào chính mô hoặc một trong những tổ chức tế bào của cơ thể. Khi mắc tiểu đường tuýp 1 thì insulin – sản sinh tế bào ở các tuyến tuỵ bị phá huỷ.
1. Bệnh tiểu đường có phổ biến không?
Bệnh tiểu đường ở trẻ không phổ biến lắm, nhưng có rất nhiều thay đổi rõ rệt về số lượng trẻ mắc bệnh gia tăng trên thế giới:
Ở Anh và Wales: 17/100.000 trẻ mắc tiểu đường mỗi năm.
Ở Scotland con số này là: 25/100.000 trẻ.
Ở Finland: 43/100.000 trẻ.
Ở Nhật: 3/100.000 trẻ.
30 năm qua số lượng các trường hợp mắc tiểu đường ở trẻ đã tăng gấp 3 lần. Ở Châu Âu và Mĩ, tiểu đường tuýp 2 đã từng thấy lần đầu ở những người trẻ.
Đó có thể là một phần lý do xu hướng gia tăng trẻ béo phì trong xã hội của chúng ta. Nhưng bệnh béo phì cũng không thể giải thích được hoàn toàn số lượng mắc tiểu đường tuýp 1 ở trẻ ngày càng cao.
2. Lý do gì khiến nhiều trẻ em lại mắc bệnh tiểu đường?
Cũng như những người trưởng thành, lý do mắc tiểu đường ở trẻ nhỏ không được biết đến một cách cặn kẽ. Nó có thể liên quan đến gen và môi trường sống.
Phần lớn trẻ đều có khả năng mắc tiểu đường tuýp 1, không phụ thuộc vào việc trẻ đó được sinh ra trong một gia đình có tiền sử mắc bệnh tiểu đường.
3. Bệnh tiểu đường có những triệu chứng gì?
Triệu chứng chính ở trẻ em cũng tương tự như người lớn. Chúng có dấu hiệu xuất hiện trong một vài tuần như:
+ Khát nưới.
+ Mệt mỏi.
+ Giảm cân.
+ Thường xuyên đi tiểu.
Ngoài ra chúng còn có các triệu chứng khác đối với trẻ như:
+ Đau bụng.
+ Đau đầu
+ Có vấn đề về hành vi cư xử khác thường.
Thỉnh thoảng bệnh tiểu đường nhiễm axit xuất hiện trước khi bệnh tiểu đường được chẩn đoán, mặc dù điều này ít xảy ra ở Mỹ do có hiểu biết tốt về các triệu chứng của bệnh.
Các bác sĩ cũng nên cân nhắc kỹ lưỡng khả năng mắc bệnh tiểu đường ở bất kỳ trẻ nào mà không hề liên quan đến tiền sử bệnh tật của gia đình hoặc đau bụng trong một vài tuần.
Nếu bệnh tiểu đường được chẩn đoán, những đứa con của bạn cần phải tham khảo những điều đặc biệt về tiểu đường của trẻ em.
4. Tiểu đường được chữa trị như thế nào cho trẻ?
Việc chăm sóc bệnh tiểu đường ở trẻ thông thường được điều trị bởi bệnh viện hơn là bác sĩ đa khoa của họ.
Hầu hết trẻ em mắc tiểu đường cần được điều trị insulin, cần được cung cấp insulin hằng ngày (tác dụng nhanh và chậm) và tăng lượng insulin theo tuổi.
Thường trong những năm đầu sau khi chẩn đoán bị bệnh, con bạn có thể chỉ cần một lượng nhỏ insulin. Đây được coi là thời kỳ đầu tiên của bệnh.
Cũng như điều trị insulin, điều chỉnh lượng đường glucose tốt và tránh “hypos” (giảm lượng đường trong máu) là rất quan trọng. Vì có nhiều loại bệnh tiểu đường phức tạp tăng thêm cùng với bệnh tiểu đường đang mắc phải trong thời gian dài mắc bệnh.
5. Cha mẹ có thể làm gì giúp con của mình?
Chung sống với bệnh tiểu đường thực chất là một cuộc chiến về mặt tâm lý, đặt các gia đình trong tình trạng căng thẳng. Vậy nên, phải có những điều trị đúng đắn, tích cực. Điều này có thể từ bác sĩ đa khoa của gia đình bạn, bệnh viện hoặc sự giúp đỡ của xã hội.
Sự hiểu biết tất cả những điều khác nhau về bệnh tiểu đường và việc điều trị đòi hỏi kiên nhẫn sẽ là rất khó nhưng điều này sẽ có lợi cho con bạn và cuộc sống gia đình bạn.
Những cách sau giúp bạn hiểu biết thêm về bệnh tiểu đường:
- Học cách tiêm insulin như thế nào. Insulin thường được tiêm ở bụng hoặc bắp đùi.
- Nhận biết các triệu chứng về glucose trong máu thấp(hạ đường huyết), bệnh tiểu đường nhiễm axit và biết cách khắc phục nó.
- Đảm bảo rằng đường glucose luôn luôn có sẵn trong nhà.
- Luôn đo mức độ glucose trong máu và dạy cho con bạn biết phải làm gì ngay khi chúng đã lớn.
- Dạy cho con bạn cách tiêm insulin như thế nào.
- Gặp bác sĩ thường xuyên để kiểm tra tình trạng bệnh và đặc biệt nếu con bạn bị ốm vì bất cứ lí do gì – để được điều trị và có những hướng thay đổi thích hợp.
- Thông báo cho nhà trường và bạn bè con bạn về các triệu chứng của hạ đường huyết và cách họ phải làm gì khi gặp trường hợp đó.
- Tiếp xúc với những người bị mắc tiểu đường xung quanh để có sự giúp đỡ hơn.
6. Chế độ ăn kiêng như thế nào
Các chuyên gia dinh dưỡng là nhân vật không thể thiếu trong quá trình điều trị. Nhưng quan trọng hơn, cha mẹ phải giúp con mình thực hiện được chế độ ăn dinh dưỡng cân bằng tốt cho sức khoẻ, đặc biệt là nhiều chất xơ và carbohydrates, hạn chế ăn bánh kẹo ngọt.
Giúp con bạn có những hiểu biết về phản ứng của cơ thể trong việc ăn uống, tiếp nhận insulin và ăn đồ ngọt điều độ ở mức có thể – được kèm thèo bởi liều lượng insulin phải tiêm.
7. Hoạt động thể lực như thế nào?
Hoạt động thân thể rất quan trọng đối với trẻ bị mắc tiểu đường, vì vậy hãy khuyên con bạn phải tập thể dục hàng ngày.
Hoạt động thân thể sẽ làm giảm lượng đường trong máu, vậy nên nếu con bạn phải tiêm insulin thì liều lượng cần được giảm xuống. Tốt nhất là cho chúng ăn bánh mỳ, nước hoa quả hoặc thức ăn cung cấp carbohydrates khác trước khi tập.
8. Điều trị trong bao lâu?
Một người bị mắc tiểu đường từ nhỏ sẽ sống với chế độ ăn kiêng và uống thuốc lâu hơn một người mắc tiểu đường khi trưởng thành.
Bệnh tiểu đường chữa rất lâu và có độ rủi ro cao như những biến chứng ảnh hưởng đến mắt và tính khí con người.
Điều này thường bắt đầu sau khi dậy thì nhưng thường có liên quan đến cuộc sống sau này.
Thường xuyên kiểm tra những biến chứng ở giai đoạn sau bắt đầu khi trẻ được 9 tuổi. Từ đó kiểm tra thường xuyên hàng năm.

Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2013

Theo thống kê mới nhất của Viện Đái tháo đường và Rối loạn chuyển hóa - ĐH Y Hà Nội, tại Việt Nam, số lượng người mắc bệnh tiểu đường chiếm tỷ lệ 5,7%. Số người mắc bệnh tăng nhanh tại các thành phố lớn. 

Thống kê này cũng cho thấy, bệnh tiểu đường thường phát triển âm thầm nên khi phát hiện, bệnh nhân đã có những biến chứng nguy hiểm (44% bị các biến chứng về thần kinh, 71% các biến chứng về tim, não, thận và 8% các biến chứng về mắt).
Một số biến chứng nguy hiểm thường thấy của bệnh tiểu đường nếu phát hiện quá muộn là tổn thương thần kinh ngoại vi (có dễ dẫn đến nhiễm trùng, hoại tử, gây loét và có thể phải cắt cụt chi để bảo toàn tính mạng), tổn thương thận (suy thận, liệt chức năng lọc và bài tiết), biến chứng mắt (các bệnh võng mạc), tổn thương mạch máu và tim (cao huyết áp, xơ cứng động mạch, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não gây bại liệt hoặc tử vong), nhiễm trùng hoặc phải tháo khớp (tay, chân)...  
Những biến chứng trên có thể phòng chống được ở mức cộng đồng, song nhận thức của đa phần người dân về bệnh còn hạn chế. Sau 7 - 10 năm khi bệnh đã bắt đầu xuất hiện biến chứng, việc điều trị sẽ khó khăn và tốn kém. Nếu phát hiện và được chẩn đoán sớm, bệnh sẽ dễ điều trị, hạn chế khả năng chuyển sang giai đoạn tiểu đường.
BS Ngô Thế Phi, Trưởng khoa Nội tiết BV Thủ Đức, cho biết: "Để phòng ngừa bệnh tiểu đường hiệu quả, bạn nên thay đổi lối sống lành mạnh như: chơi thể thao, tham gia các hoạt động giải trí để tránh stress, chế độ dinh dưỡng hợp lý...". Ngoài ra, bạn có thể sử dụng một số thảo dược tự nhiên để phòng ngừa và điều trị bệnh hiệu quả, không ảnh hưởng đến sức khỏe.
Nếu thuộc nhóm có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường cao, bạn có thể nắm vững những nguyên tắc dưới đây: giảm trọng lượng thừa, chỉ cần giảm ở mức vừa phải - 7% là bạn có thể tránh nguy cơ bị tiểu đường; cắt giảm chất béo và calo trong khẩu phần ăn hằng ngày.  
Điều này cũng rất có lợi khi bạn muốn giảm cân; duy trì một chế độ ăn ít cacbon hydrate và giàu protein để có thể bền sức với mọi hoạt động.
Thảo dược methi Ấn Độ (họ đậu) có tác dụng hỗ trợ trong phòng và điều trị tiểu đường
Ngoài ra, người thuộc nhóm có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường cao nên ăn thật nhiều chất xơ, 14 gram chất xơ cho mỗi 1.000 calo bạn nạp vào cơ thể; ăn ngũ cốc nguyên hạt, cố gắng trong khẩu phần ngũ cốc của mình có ít nhất 1/2 là ngũ cốc nguyên cám; tăng cường rèn luyện thân thể như đi bộ ít nhất 2 giờ 30 phút mỗi tuần.  
Hiện nay, một số người đồn thổi về việc uống rượu giúp ngăn ngừa bệnh tiểu đường. Tuy nhiên thực tế chưa có dữ liệu chính thức nào nói về tác dụng này.
Bệnh tiểu đường hiện chưa có thuốc chữa trị hoàn toàn. Các loại thuốc Đông, Tây y, thảo dược giúp hỗ trợ điều trị nhằm ổn định lượng đường huyết của máu.

PGS.TS Tạ Văn Bình, Giám đốc bệnh viện Nội tiết và Đái tháo đường Quốc gia nhấn mạnh, những người làm các công việc ít vận động như làm tại văn phòng, bệnh viện... dễ mắc bệnh ĐTĐ.

 Cũng theo PGS Bình, những người ít vận động này mắc bệnh ĐTĐ cao gấp 3 lần những người lao động chân tay.
 Để dự phòng bệnh ĐTĐ, những người làm việc trong các văn phòng cần phải dành thời gian tập thể dục, đi bộ 30 phút mỗi ngày. Người dân đều có thể phát hiện ra bệnh dựa vào những triệu chứng như sau (triệu chứng của ĐTĐ tuýp 2): răng lung lay từng đợt; mắt nhìn mờ từng đợt; bị nhiễm trùng (vết thương) tái phát; viêm nhiễm đường sinh dục. Những triệu chứng này đều phải được quan tâm và đi khám ngay để được phát hiện sớm và điều trị bệnh tiểu đường để tránh những biến chứng về sau này.

Thứ Tư, 18 tháng 9, 2013

Nếu bạn bị đái tháo đường mà coi nhẹ việc kiểm soát đường huyết thì sẽ dễ bị bệnh suy tim. Đó là một kết luận mới nhất được công bố trên tạp chí khoa học Lancet.

Đây là công trình nghiên cứu của các nhà khoa học Thụy Điển trong một nỗ lực nhằm tìm ra các nguy cơ cụ thể của bệnh tim mạch trên bệnh nhân bị đái tháo đường type 1. Công trình điều tra trên 20.985 bệnh nhân bị bệnh đái tháo đường type 1. Toàn bộ những người này được phỏng vấn và theo dõi các chỉ số nguy cơ của tim mạch như tuổi, LDL, HDL, HbA1c, đường huyết, huyết áp...

Kết quả cho thấy, trong toàn bộ số bệnh nhân bị bệnh đái tháo đường type 1 có 3% số trường hợp bị bệnh suy tim. Điều đáng nói là trong số những bệnh nhân này đều có đường huyết tăng cao rõ và chỉ số HbA1c tăng cách biệt. Chỉ số HbA1c là một chỉ số phản ánh mức độ kiểm soát đường huyết của người bệnh. Điều này cho thấy hầu như những bệnh nhân bị suy tim đều kiểm soát đường huyết rất kém. Theo như những gì tính toán, nếu chỉ số HbA1c tăng lên 1% thì nguy cơ gây ra suy tim là 30%, độc lập so với các yếu tố nguy cơ khác như LDL.
Điều này cho thấy, nếu bạn không muốn quả tim mình chóng suy tàn thì chỉ còn một cách là kiểm soát đường huyết cho tốt. Đây là chìa khoá với người đái tháo đường type 1.

Theo nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Mỹ, những bệnh nhân đái tháo đường loại 2 đã có sự cải thiện bệnh nhanh hơn sau khi trải qua phẫu thuật, so với những người chỉ giảm cân nhờ chế độ ăn mà không phẫu thuật. 

Họ phát hiện những bệnh nhân sau phẫu thuật có nồng độ chất branched-chain amino acids (BCAAs) trong máu giảm thấp, kèm theo đó sự chuyển hóa đường trong cơ thể đạt mức ổn định tốt hơn. Trong khi bệnh nhân không phẫu thuật không có được những tác động này.
Phẫu thuật thu nhỏ dạ dày đã trở nên phổ biến nhưng chưa được xem xét trong hướng dẫn điều trị bệnh đái tháo đường. Tuy vậy, các nhà khoa học vẫn đang tìm hiểu thêm về những ảnh hưởng của nó, cũng như các tác động có liên quan đến BCAAs trên bệnh nhân đái tháo đường

Đái tháo đường (ĐTĐ) đang trở thành vấn đề sức khỏe toàn cầu, căn bệnh này không chỉ là mối quan tâm của người dân ở các nước phát triển mà ngay ở những nước còn nghèo như nước ta thì tỷ lệ mắc bệnh cũng đang ngày một gia tăng. Một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến ĐTĐ chính là bệnh béo phì.

Vì sao người ta mắc bệnh béo phì, những nguy cơ dễ mắc phải?
Béo phì là khái niệm chỉ trạng thái cơ thể tích quá nhiều mỡ. Bệnh béo phì có thể chia làm 2 dạng lớn là béo phì đơn thuần và bệnh béo phì có tính kế tiếp. Trong đó dạng béo phì đơn thuần chiếm đa số, các yếu tố liên quan được biết đến là di truyền, dinh dưỡng không hợp lý, thói quen lười vận động. Căn cứ vào nguyên nhân gây bệnh người ta có thể chia bệnh béo phì có tính kế tiếp thành các loại là: bệnh béo phì do vùng dưới đồi não, béo phì do thùy thể (tuyến yên), béo phì do giảm chức năng giáp trạng, tuyến thượng thận. Trong dạng béo phì này thì ở người trưởng thành bệnh do chứng tổng hợp và giảm chức năng tuyến giáp trạng, còn ở trẻ có thể do ảnh hưởng của vùng dưới đồi não (do u, bướu). Chính vì vậy đối với một người mắc chứng béo phì, điều quan trọng trước tiên là phải xem xét những nguyên nhân gây ra béo phì có tính kế tiếp, sau đó mới xét những yếu tố gây ra béo phì đơn thuần, có như vậy mới tìm ra được tác nhân chính xác để điều trị hiệu quả.
Béo phì không chỉ ảnh hưởng đến thẩm mỹ mà còn gây ra nhiều bất tiện trong sinh hoạt, nguy hiểm hơn là nó gây ra nhiều chứng bệnh, làm giảm tuổi thọ và mất nhiều chi phí điều trị. Theo thống kê, người béo phì có tỷ lệ mắc bệnh tim và tắc nghẽn mạch máu não cao gấp 2 lần người có cân nặng bình thường, những căn bệnh như nhồi máu cơ tim, tăng huyết áp... đều rất phổ biến, như vậy tuổi thọ của những đối tượng này giảm khoảng 4-8 năm so với người bình thường, chưa kể đến những trường hợp đột tử. Người béo phì còn giảm khả năng lao động và nhất là sức bền trong vận động, chức năng hô hấp, sinh sản cũng bị hạn chế, các bệnh gan mật hay mắc phải nhất là sỏi mật, gan nhiễm mỡ... và điều đặc biệt phổ biến là dễ mắc các bệnh nội tiết, trong đó đtđ là biến chứng hay gặp.
Béo phì gây ra ĐTĐ như thế nào
Trong cơ thể người, béo phì tồn tại một trạng thái bệnh lý đặc thù gọi là chất đề kháng insulin. Sau khi ăn, một lượng đường khá lớn được hấp thu vào trong máu, thông qua huyết dịch mà tuần hoàn đến mọi nơi trong cơ thể. Nhờ có insulin đường mới đi vào tế bào, được cơ thể sử dụng. Lượng đường glucose trong máu được duy trì trong một phạm vi an toàn nhất định cũng nhờ insulin. Sở dĩ insulin có đủ khả năng phát huy tác dụng đó là đầu tiên nó kết hợp với insulin thụ thể ở trên màng tế bào, sau đó dẫn dắt một loạt những chất truyền tín hiệu khác trong tế bào, đem thông tin “ó đường” được truyền vào các tầng lớp sâu trong tế bào. Sự trao đổi chất diễn ra trong bản thân tế bào để chuyển hóa đường thành năng lượng. Cơ chế vận chuyển, chuyển hóa glucose ở người béo phì có rất nhiều hạn chế do:
Số lượng insulin thụ thể trên màng tế bào bị giảm sút; chức năng của từng thụ thể đơn lẻ cũng bị suy giảm; những thụ thể sau khi được insulin kích hoạt, chức năng truyền tín hiệu vào sâu bên trong tế bào lại bị tổn thương; số lượng phân tử vận chuyển glucose giảm; chức năng gan chuyển hóa glucose thành đường nguyên chất để tồn trữ lại không bảo đảm... Với những nguyên nhân như trên, chất đề kháng insulin được sản sinh ra, lượng glucose trong máu vì thế rất khó chuyển vào tế bào, đây chính là hiện tượng đề kháng insulin.
Với người béo phì, thời kỳ đầu mới phát béo, chức năng sản xuất insulin còn bình thường nhưng dần dần do sự đề kháng insulin tăng lên làm hiệu quả hoạt động của chất này giảm sút. Để khắc phục hiện tượng này, tuyến tụy phải hoạt động quá sức dẫn đến chức năng sản sinh ra insulin ở tụy giảm dần, lúc này insulin trong cơ thể sẽ không đủ để duy trì việc chuyển hóa đường trong máu ở mức bình thường nữa. Do vậy ĐTĐ xuất hiện.
Hạn chế biến chứng ĐTĐ ở người béo phì thế nào
Trước hết để phòng bệnh mọi người nên giữ trọng lượng hợp lý. Phòng đtđ phải bắt đầu từ tránh bị thừa cân béo phì. Muốn vậy nên có chế độ dinh dưỡng: giàu chất xơ, giàu vitamin (rau xanh, trái cây tươi), hạn chế ăn mỡ và phủ tạng động vật, không ăn quà vặt, ít dùng đồ ăn nhanh, ăn bữa tối ít năng lượng. Về vận động, cần tập luyện hằng ngày tùy khả năng sức khỏe, nhưng vận động phải tiêu hao được năng lượng (cơ thể toát mồ hôi). Mặt khác phải bảo vệ được sức khỏe tinh thần vì stress cũng là một tác nhân gây béo phì. Những người thừa cân cần phải kiểm tra sức khỏe thường xuyên, để không chỉ có chế độ dinh dưỡng, tập luyện phù hợp mà còn phát hiện sớm những căn bệnh nguy hiểm như đtđ, tim mạch, tăng huyết áp và được điều trị kịp thời. Tất cả những biện pháp giảm béo như hút mỡ, dùng thuốc đều phải có sự chỉ định chặt chẽ của thầy thuốc có uy tín.

Một cuộc nghiên cứu mới cho thấy người cao tuổi bị tiền tiểu đường, tiểu đường týp 2 thường bị giảm kích thước não và khả năng trí tuệ một cách nhanh chóng chỉ trong vòng 2 năm, theo Science Daily.

Một nhóm nghiên cứu Úc do phó giáo sư Katherine Samara thuộc Viện Nghiên cứu Y học Garvan chủ trì, nhận thấy bộ não lão hóa dễ dẫn đến tình trạng lượng đường trong máu tồi tệ hơn thậm chí trước khi có thể chẩn đoán ra bệnh tiểu đường týp 2.
Dù thể tích não giảm là chuyện bình thường của quá trình lão hóa nhưng các chuyên gia nhận thấy người cao tuổi có lượng đường trong máu không ổn định và mắc bệnh tiểu đường týp 2 mất thể tích não cao gấp khoảng 2,5 lần trong 2 năm so với người cùng tuổi. Việc giảm kích thước thùy não trước có ảnh hưởng rất lớn đến chức năng nhận thức cũng như chất lượng cuộc sống.
Trong cuộc nghiên cứu, các chuyên gia đã so sánh ảnh chụp cộng hưởng từ của 312 đối tượng tham gia từ lúc bắt đầu cho đến kết thúc 2 năm nghiên cứu. Những người này đều ở độ tuổi từ 70 - 90 và không bị chứng mất trí nhớ. Lúc bắt đầu cuộc nghiên cứu, 41% trong số đó bị tiền tiểu đường và 13% bị tiểu đường týp 2.
Khi kết thúc cuộc nghiên cứu, những người tham gia được phân thành 4 nhóm: Người có lượng glucose ổn định, bình thường (nhóm 1, với 102 người), người bị tiền tiểu đường ổn định (nhóm 2, 120 người), người có lượng glucose trở nên xấu đi (nhóm 3, 57 người) và người bị tiểu đường loại 2 từ đầu (nhóm 4, 33 người).
Các ảnh chụp cộng hưởng từ cho thấy rằng nhóm 1 mất trung bình 18,4 cm3 tổng dung tích não trong 2 năm. Trong khi đó, nhóm 2 mất gấp 1,4 lần nhóm 1 (26,6 cm3). Cả nhóm 3 và nhóm 4 mất dung tích não gấp 2,3 lần nhóm 1 (lần lượt 41,7 cm3 và 42,3 cm3).
Nhóm nghiên cứu kết luận rằng tình trạng đường huyết của một người sau 2 năm có thể là công cụ đáng kể giúp tiên đoán mức độ suy giảm thể tích não.
“Chúng ta cần biết cách ngăn chặn những ảnh hưởng tiêu cực của bệnh tiểu đường đối với bộ não”, phó giáo sư Samara nói.

Do mật độ xương giảm nên người mắc bệnh đái tháo đường dễ bị gãy xương và phải nằm một chỗ, có thể dẫn đến nhiễm trùng.

Bệnh tiến triển âm thầm
Bản thân bệnh ĐTĐ không phải là thủ phạm nhưng nó góp phần thúc đẩy bệnh xuất hiện sớm hơn, nặng hơn hoặc tiến triển nhanh hơn.
Nếu bị hội chứng ống cổ tay, hội chứng ống cổ chân thì người bệnh sẽ tê rần ở bàn tay hoặc bàn chân.
Cảm giác tê càng tăng khi bệnh nhân buông thõng tay chân, gập vùng cổ tay, cổ chân trong nhiều giờ liền. Đây chính là biểu hiện bị chèn ép thần kinh ở khu vực cổ tay, cổ chân.
Còn khi các gân gấp ở lòng bàn tay dày lên khiến bàn tay và các ngón bị co rút, cong quặp lại như bàn chân chim là do các chấn thương rất nhỏ, kín đáo xảy ra trên người bị ĐTĐ có sẵn biến chứng mạch máu nhỏ.
Bệnh thường tiến triển âm thầm, lúc đầu chỉ có cảm giác khó khăn khi co duỗi ngón tay cho đến khi ngón tay hoàn toàn cong gập và đau buốt. Tổn thương gây xơ hóa và co rút cũng có thể xảy ra ở bàn chân và thể hang bộ phận sinh dục nam.
Dạng tổn thương khác là ngón tay lò xo. Bệnh nhân không thể dễ dàng mở bung ngón tay ra một khi đã cố gắng gập vào. Khi cổ tay sưng đỏ, bệnh nhân rất đau khi làm những việc thông thường như vắt quần áo, vặn tay ga xe máy hay cầm vật nặng.
Đây là bệnh viêm gân do ngón cái. Mật độ xương của bệnh nhân ĐTĐ thường thấp hơn người bình thường từ 20% - 30%. Việc nằm liệt giường do gãy xương, đặc biệt là gãy cổ xương đùi, nếu chăm sóc không tốt dẫn đến loét nhiễm trùng một nguy cơ dẫn đến tử vong.
Những biến chứng xương khớp
Nhóm bệnh xương khớp do ĐTĐ để lại hậu quả rất nặng nề, nhất là người bệnh trên 10 năm và có mức đường huyết không được khống chế. Bệnh thường làm co rút gân cơ chân, di lệch khớp xương bàn chân, mất cảm giác và tổn thương xương khớp.
Bàn chân ngày càng biến dạng, để lại di chứng khiến người bệnh đi lại khó khăn, dễ bị va vấp. Đặc điểm của bệnh khớp do ĐTĐ là bệnh nhân không cảm thấy đau hoặc đau rất ít nên các tổn thương này dễ dàng bị bỏ qua cho đến khi vết loét lớn, khó chữa lành, thậm chí có nguy cơ bị cắt bỏ một ngón hay cả một bàn chân.
Biến chứng mạch máu ở chi dưới cũng có thể gây ra tình trạng hoại tử nên bệnh nhân có nguy cơ tàn phế vì phải đoạn chi. Bàn tay của người bị ĐTĐ lâu năm cũng thường bị co rút, do lòng bàn tay trở nên dày, thô cứng và khum khiến bệnh nhân không thể duỗi thẳng lòng bàn tay và các ngón tay. Tình trạng teo cơ cũng rất thường xảy ra, đặc biệt ở các khối cơ lớn vùng lưng, mông, đùi.
Vì vậy, bệnh nhân ĐTĐ cần điều trị để đưa đường huyết về mức bình thường song song với việc điều trị cần kết hợp chế độ ăn hợp lý, tập luyện thể dục thường xuyên và cũng cần khám tổng quát định kỳ để tầm soát các bệnh lý về xương khớp, mắt, gan, thận…để điều trị kịp thời.

Design by Hao Tran -
Hao Tran